TÀI LIỆU HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH P1-B6

Bài 6. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Câu 1. Anh chị hãy trình bày đặc trưng của xã hội XHCN. Liên hệ thực tế.

Trả lời:


Xã hội XHCN theo quan điểm của Mác – Lênin là giai đoạn thấp của XHCS hay còn gọi là giai đoạn đầu của XHCS. Có nhận thức khoa học về xã hội XHCN thì chúng ta mới có thể tìm ra những nội dung cụ thể, hình thức, bước đi và những điều kiện cơ bản để xây dựng xã hội đó ở nước ta. Trước hết cần phải hiểu rõ những đặc trưng cơ bản được đúc kết từ lý luận và thực tiễn xây dựng xã hội XHCN hiện nay.

Đầu tiên phải kể đến là đặc trưng về chính trị.

Xã hội XHCN xác lập quyền làm chủ của người dân lao động: thiết lập chế độ dân chủ XHCN – nền dân chủ triệt để, toàn diện, cho đa số. Nhà nước XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Thực chất đó là nhà nước do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội.

Xã hội XHCN xây dựng hệ thống quyền lực tối cao nhất thuộc về nhân dân. Theo Lênin, nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc của nhà nước, thể hiện tính tự giác, tự quản của nhân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ ràng hơn.

Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, thõa mãn nhu cầu ngày càng cao của nhân loại. Xã hội XHCN chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất vì chế độ tư hữu TBCN bóc lột giá trị thặng dư của đại đa số lao động. Xã hội XHCN mang trong mình kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường, vẫn còn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động…

Nền dân chủ XHCN lấy chủ nghĩa Mac – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Nhân dân được nâng cao trình độ dân trí, có điều kiện để phát triển cá nhân, làm chủ những giá trị văn hóa – tinh thần.

Liên hệ:

Xã hội XHCN cũng có đặc trưng cơ bản về kinh tế.


Nền kinh tế trong xã hội XHCN phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ, hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu từng bước được xác lập, hoàn thiện. Xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có lực lượng sản xuất cao (như G7...) thì lên xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị thành công. Khi đó chính trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao là một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản. Ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt Nam và các nước khác) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn và ngày càng vững chắc.

Hình thành lao động tập thể trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện. Tổ chức quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối theo lao động. Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và mục đích đó mà các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới của bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của mình trước xã hội, trước mọi công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn thiện chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động của họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội. Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.

Liên hệ:

Đặc trưng cơ bản tiếp theo của xã hội XHCN là đặc trưng về quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người.


Xã hội XHCN thực hiện sự giải phóng con người ra khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính trị suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh tế, mức sống vật chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã không còn chế độ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ xã hội. Đây là những tiền đề chính trị, kinh tế khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện việc giải phóng con người và phát triển con người toàn diện. Không có những tiền đề cơ bản đó không thể giải phóng con người, không thực hiện được công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh xã hội... Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước, trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù họ ở thành phần kinh tế nào...) trước pháp luật chung của nhà nước; bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, tôn giáo. Quan hệ giữa người với người theo phương châm “mọi người vì một người, một người vì mọi người.

Liên hệ:

Tiếp theo là đặc trưng về văn hóa.


Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng tư tưởng chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hoá, xã hội, tôn giáo v.v.). Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Do đó, đời sống tư tưởng - văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vừa xây dựng nền văn hóa tiến bộ, vừa đấu tranh với tàn dư lạc hậu của nền văn hóa cũ.

Liên hệ:

Đặc trưng cuối cùng của xã hội XHCN là đặc trưng về quan hệ đối ngoại.


Xã hội XHCN tuân thủ nguyên tắc hòa bình hữu nghị, hợp tác cùng có lợi và không xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của nhau.

Trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập.

Lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế được giải quyết thích hợp trong xây dựng CNXH. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Liên hệ:

Câu 2. Anh chị hãy làm rõ sự phát triển của hệ thống lý luận CNXH ở nước ta từ khi đổi mới đến nay.


Lý luận về CNXH ở nước ta dựa trên hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH ở Việ Nam nói riêng. Lý luận về CNXH ở nước ta có sự phát triển rõ rệt qua từng thời kỳ cách mạng của dân tộc.

Trước đổi mới (từ 1954 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986), hệ thống lý luận CNXH ở nước ta có thể khái quát như sau:

- Sử dụng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân - sản phẩm của cách mạng giải phóng dân tộc - chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản với những chức năng, nhiệm vụ mới hướng vào mục tiêu xây dựng xã hội XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng và Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất. Chế độ chính trị với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN.

- Xóa bỏ chế độ người bóc lột người và mọi sự áp bức, bất công. Xác lập và xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu: toàn dân (quốc doanh) và tập thể. Không chấp nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Xây dựng và phát triển nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn XHCN.

- Tập trung xây dựng và phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH với sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ và cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, không ngừng nâng cao năng suất lao động.

- Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, xác lập và hoàn thiện cơ chế quản lý theo kế hoạch, tập trung, thống nhất và quyết định hành chính của Nhà nước. Nhà nước chi phối mọi hoạt động và quan hệ kinh tế-xã hội, quản lý chặt chẽ các hoạt động từ sản xuất đến lưu thông, phân phối sản phẩm và hình thành chế độ bao cấp của Nhà nước trong cả sản xuất và tiêu dùng.

- Xây dựng và phát triển nền văn hóa có nội dung XHCN và có tính dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng con người mới XHCN, giáo dục sâu sắc tư tưởng, lý tưởng CSCN và chủ nghĩa yêu nước, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

- Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và cuộc sống bình yên của nhân dân. Nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa quốc tế XHCN, mở rộng quan hệ đối ngoại, vì hòa bình hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia dân tộc.

Từ khi đổi mới (tức từ Đại hội VI của Đảng) đến nay, lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh càng được củng cố và phát triển để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước cũng như tình hình quốc tế. Qua các kỳ Đại hội của Đảng, sự đổi mới và phát triển trong lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng rõ ràng hơn.

- Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình, chỉ ra những yếu kém trong tư duy, lý luận của Đảng nói chung, tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nói riêng. Cũng từ đây Đảng ta hoạch định đường lối đổi mới toàn diện trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn những quy luật khách quan và nội dung, bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí, nóng vội. Chú trọng đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật bảo đảm cho sự đổi mới đúng định hướng, có nguyên tắc và phát triển có hiệu quả thiết thực trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đảng coi trọng tổng kết để không ngừng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, trong đó có nhận thức lý luận về quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

- Sự kiên trì đổi mới trong chỉ đạo và tổ chức thực tiễn, đồng thời Đảng đổi mới tư duy, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là lý luận về CNXH và quá độ lên CNXH được khẳng định ở Đại hội VII của Đảng năm 1991. Lần đầu tiên Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu, mô hình 6 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam, làm rõ những nội dung, hình thức, bước đi của thời kỳ quá độ. Xã hội XHCN ở Việt Nam là một xã hội:

1. Do nhân dân lao động làm chủ;

2. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;

3. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

4. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;

5. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

6. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Đại hội VII cũng đề ra 7 phương hướng cơ bản để xây dựng CNXH ở nước ta (Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân; Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cait thiện đời sống nhân dân,…

- Đại hội VIII của Đảng nhận định “Sau 10 năm đổi mới, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ,cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH đất nước; phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội đã chỉ ra những nội dung cơ bản của CNHHĐH trong những năm còn lại của thập kỷ 90 của thế kỷ XX.”

- Đại hội IX của Đảng, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.

- Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có tám đặc trưng:

Một là, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh''.

Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh''. Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ ''dân chủ'', thành ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Đại hội X đã xác định đó là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Hai là, ''do nhân dân làm chủ''.

Cương lĩnh 1991 viết: ''do nhân dân lao động làm chủ''. Đại hội X đã điều chỉnh là ''do nhân dân làm chủ''. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, ''có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất''.

Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã hội có sự đan xen phức tạp và đang phát triển. Vì vậy, nói về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh, bỏ đoạn nói về ''chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu''.

Bốn là, ''có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc''.

Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.

Năm là, ''con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”.

So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ ''bóc lột''.

Xét về bản chất và mục tiêu lâu dài trong xã hội ta không còn bóc lột. Nhưng trong quá trình phát triển, hiện tượng bóc lột còn tồn tại do trình độ sản xuất quy định và trong thời kỳ quá độ, nó còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển.

Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chữa cụm từ ''có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'' thành ''phát triển toàn diện''.

Sáu là, “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ''.

Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ ''tương trợ'' để phù hợp hơn với thực tế, phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, miền, từng dân tộc.

Bảy là, ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản''.

Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng l-1994), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm ''xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa''. Các Đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này.

Tám là, ''có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới''.

Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.

- Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011 đã tổng kết 20 năm đổi mới và chỉ ra rõ những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đặc trưng hoàn toàn mới so với Đại hội VII, kế thừa tinh thần của Đại hội X.

2. Do nhân dân làm chủ. Đây là đặc trưng có sự kế thừa, chọn lọc, điều chỉnh từ Đại hội VII và Đại hội X, thể hiện sự mở rộng dân chủ xã hội qua việc bỏ cụm từ “lao động” sau cụm từ “nhân dân”.

3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. So với cương lĩnh năm 1991, đặc trưng này có sự điều chỉnh diễn đạt về quan hệ sản xuất: chuyển từ “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” thành “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Đây là cách nhìn nhận mới về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là đặc trưng kế thừa đầy đủ từ đặc trưng trong Đại hội VII.

5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Đặc trưng này kế thừa, điều chỉnh và lược bỏ một số cụm từ của Cương lĩnh 1991.

6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Điểm mới của đặc trưng này so với cương lĩnh 1991 là cụm từ “các dân tộc trong nước” thay bằng “các dân tộc trong cộng đồng Việ Nam”, bổ sung thêm cụm từ “tôn trọng” sau cụm từ “đoàn kết” để xác định phong phú hơn nội dung bao trùm của chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ tộc người trong quốc gia đa tộc Việt Nam.

7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với cương lĩnh năm 1991 để làm rõ bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam, mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, giữa Đảng cộng sản với Nhà nước.

8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đặc trưng này kế thừa và điều chỉnh diễn đạt từ đặc trưng của Đại hội VII, từ “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” thành “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Tám đặc trưng của mô hình trên đây vừa là mục tiêu, vừa thể hiện bản chất của chế độ XHCN được nêu rõ trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

<<<<<<      >>>>>>
1
1
2
2
3
3
4
4
5
5
6
6
7
7
8
8
9
9
10
10
11
11
12
12

Featured Posts

LEDUAN11 | 2024 | Khai giảng Lớp Trung cấp Lý luận chính trị, Khóa 13 cho cán bộ 2 tỉnh Salavan và Savannakhet nước CHDCND Lào

 

School Legislation

Show all posts

Class Schedule

Show all posts

News

Show all posts

Lesson

Show all posts

Visit

Show all posts

Various Techniques

Show all posts

Happy birthday

Show all posts

Student Information

Show all posts

Other

Show all posts

Maps

Facebook

Exchange Rate

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
12

Followers

Views

Qr Bank & Logo

QR BANK
Qr Bank

LOGO
Logo

© Copyright LEDUAN131474 ,Generation 11