Showing posts with label Lesson. Show all posts
Showing posts with label Lesson. Show all posts

LEDUAN11 | DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN LÀM, DÂN KIỂM TRA, DÂN GIÁM SÁT, DÂN THỤ HƯỞNG

DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN LÀM, DÂN KIỂM TRA, DÂN GIÁM SÁT, DÂN THỤ HƯỞNG
“Dân biết” là nhân dân hiểu và nắm rõ được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật liên quan đến cuộc sống nhân dân, vận mệnh đất nước, dân tộc. Nhân dân nắm, biết để bàn bạc, đóng góp ý kiến, hoạch định, góp phần bảo đảm khi được ban hành, thực hiện trong đời sống, đem lại kết quả tốt. Nhân dân biết, nắm rõ, hiểu được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, tạo cơ sở để thống nhất, đồng thuận, đồng lòng, đoàn kết tổ chức, thực hiện đạt kết quả cao trong cuộc sống. Nhân dân hiểu rõ mục đích cuối của chủ trương, chính sách, pháp luật là phục vụ lợi ích của chính nhân dân, thành quả của chủ trương, chính sách, pháp luật mang lại do nhân dân thụ hưởng, tạo ra xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Để nhân dân “biết” phải sử dụng hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục.

“Dân bàn” là nhân dân được thảo luận, bàn bạc, ý kiến, góp ý với Đảng và Nhà nước, để việc hoạch định, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật được thực hiện một cách chính xác, phù hợp, hiệu quả. Nhân dân bàn bạc, thống nhất cách thức, biện pháp tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả vào thực tiễn công việc, mang lại lợi ích cho nhân dân, đất nước. Khi nhân dân góp ý kiến đúng, xác đáng phải trân trọng, tiếp thu, hoàn thiện cho tốt hơn; khi nhân dân góp ý kiến chưa xác đáng, chưa phù hợp phải giải thích, tuyên truyền, thuyết phục để nhân dân hiểu, nắm rõ chủ trương, chính sách, pháp luật và những lợi ích đem lại. Để nhân dân “bàn” phải có cơ chế, cách thức tổ chức phù hợp.

“Dân làm” là nhân dân làm việc, thực hiện, hành động chủ trương, nghị chính sách, pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, đảm bảo hiệu quả. Nhân dân thực hiện tinh thần làm chủ, vai trò chủ thể thực hiện, triển khai hoạt động, công việc với cách thức, phương pháp, phương tiện, lực lượng thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật, việc làm vào đời sống đạt hiệu quả. Trong quá trình đó, cán bộ, đảng viên trước hết làm tốt vai trò là một công dân, với tinh thần là hạt nhân, đi đầu trong tổ chức, triển khai, thực hiện.

“Dân kiểm tra” là việc nhân dân xem xét, đánh giá thực tế thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, việc làm, qua đó phát hiện những sai lệch, thiếu sót, đề xuất, ngăn chặn, xử lý, đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra. Mặt khác, qua kiểm tra để khuyến khích, biểu dương những việc làm tốt, mô hình hay. Nhân dân kiểm tra bằng cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện dân cử, nhất là dân chủ ở cơ sở. Để nhân dân kiểm tra được cần có cơ chế cụ thể, cách thức tiến hành phù hợp.

“Dân giám sát” là nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không. Giám sát bằng hình thức, phương pháp cụ thể, thường xuyên, theo nội dung công việc, trực tiếp, hoặc gián tiếp.

“Dân thụ hưởng” là nhân dân được nhận, thụ hưởng thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Nhân dân thụ hưởng lợi ích, giá trị dẫn tới xã hội có trật tự, kỷ cương, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì con người, vì nhân dân, lan toả giá trị tiến bộ, nhân văn, phẩm giá con người, bản chất chất của chế độ xã hội.

LEDUAN11 | 6 | HÃY GIẢI THÍCH NỘI DUNG XÂY DỰNG HÌNH MẪU NGƯỜI THANH NIÊN THÀNH NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG THỜI KÌ MỚI?

Hình mẫu người Thanh Niên trong thời kì mới phải có tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn:
(1) Tâm trong, luôn nêu cao tinh thần yêu nước, có niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; Với những phẩm chất như yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, tự trọng, khiếm tốn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...
(2) Trí sáng, luôn nêu cao tính tự giác trong học tập, không ngừng trau dồi nâng cao kiến thức, kỹ năng, trình độ theo phương châm “học suốt đời – thực học – thực tài”.
(3) Hoài bão lớn, luôn sống với ước mơ, khát vọng, lý tưởng cao đẹp, kiên định với mục tiêu, lý tưởng đúng đắn của mình, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm...

LEDUAN11 | CÂU HỎI - TRẢ LỜI ÔN THI MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Câu 01: Hãy phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, Nêu quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh?

(1) K/N: Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những văn đề cơ bản của cách mạng VN, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước VN, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc , tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc VN, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân thông dẫn ta giành thắng lợi ".
(2) Khái niệm trên thể hiện:
+ Về nội dung: Tư tưởng HCM là hệ thống các quan điểm lý luận “ toàn diện và sâu sắc của cách mạng VN"; phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng VN.
+ Về nguồn gốc: Tư tưởng HCM là sự bổ sung , phát triển và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới , kết hợp nhuần nhuyễn với các giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại.
+ Về giá trị : Tư tưởng HCM mãi mãi soi đường cho thắng lợi của cách mạng VN; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giành, bảo vệ độc lập dân tộc và sự nghiệp xây đựng , bảo vệ Tổ quốc VN XHCN.
(3) Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh
+ thời kì trước năm 1911 hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước;
+ Thời kì từ năm 1911-20 tìm được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc;
+ Thời kì từ năm 1921-30 hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng VN;
+ Thời kì từ năm 1930-41 kiên định mục tiêu, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản;
+ Thời kì từ năm 1941-69 bổ sung, phát triển và thực hiện hóa tư tưởng HCM.



3 Hãy giải thích mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng HCM?

(1) Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề tiến lên CNXH:

+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết: cách mạng VN trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN. Cách mạng dân tộc, dân chủ phải được thực hiện trước, nhằm giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản, thực hiện hai mục tiêu chiến lược: dân tộc và dân chủ.

+ Quan điểm về độc lập dân tộc của HCM: độc lâp dân tộc phải là một nền độc lập thực sự; là quyền thiêng liêng của dân tộc; phải gắn liền với hòa bình; phải đi tới tự do, hạnh phúc của nhân dân

+ Độc lâp dân tộc là tiền đề đi lên CNXH là mục tiêu trực tiếp, là quá trình tạo tiền đề đi lên CNXH về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.

(2) CNXH là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, là cơ sở để củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, phát triển đất nước:

+ CNXH là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc: cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.

+ Quan điểm của HCM về CNXH:

- về đặc trưng bản chất của CNXH là một chế độ do nhân dân lao động làm chủ, có nền KT phát triển cao, là một XH phát triển cao về văn hóa, đạo đức, XH công bằng hợp lý, thực hiện chê độ phân phối theo lao động.

- mục tiêu của CNXH: về chính trị xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ, xây dựng một nền KT XHCN, phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của CNXH...

+ CNXH tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, phát triển dân tộc.

(3) Những điêu kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với CNXH theo tư tưởng HCM

+ Tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng

+ Xây dựng khối liên minh vững chắc công-nông-tri thức làm nên tảng xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc do Đảng CS lãnh đạo

+ Gắn cách mạng VN với cách mạng thế giới.



4 Hãy giải thích tư tưởng HCM về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và CNXH? So sánh sự vận dụng tư tưởng này ở Lào?

(1) Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là ngọn cờ dẫn dắt, xuyên suốt thắng lợi của cách mạng VN

(2) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là định hướng đúng đắn trong tình hình cách mạng hiện nay

(3) Những nội dung nhiệm vụ thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong tình hình hiên nay (có 4 nội dung):

+ Tiếp tục nâng cao và hoàn thiện nền KT thị trường định hướng XHCN

+ Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh.

+Khởi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của tất cả các tầng lớp nhân dân.

+ Vận dụng tư tưởng HCM trong tình hình mới, phải có nhận thức đúng về tình hình thế giới và trong nước, trên cơ sở đó, nghiên cứu, hoạch định đường lối, nhiệm vụ chiến lược cách mạng cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.

(4) So sánh sự vận dụng tư tưởng này ở Lào:



2 Hãy giải thích nguồn gốc và phát triển tư tưởng HCM?

(1) Nguồn gốc tư tưởng HCM:

+ Kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

- chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường.; truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, tinh thần nhân nghĩa;

- dân tộc VN có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi.

+ Tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại:

- Tinh hoa văn hóa phương Đông: Nho giáo (triệt lý nhân sinh) và Phật giáo (triệt lý và giáo lý trong tư duy, cách ứng xử của con người với con người);

- Tinh hoa văn hóa phương Tây: tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp về “tự do, bình đẳng, bác ái” là một trong những yếu tố tác động đến HCM trong việc tìm hướng đi mới sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân.

(2) Chủ nghĩa Mác - Lênin: Người đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu thực tiễn VN, thực tiễn thế giới và tìm ra con đường giải phóng dân tọc, xây dựng đất nước phù hợp với sự phát triển của lịch sử và thời đại mới. Vì vậy chủ nghĩa Mác - Lênin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng HCM.

(3) Phẩm chất cá nhân của HCM:

+ đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu;

+ đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức phong phú của thời đại;

+ đó là ý chí của một nhà yêu nước.

5 Hãy phân tích quan điểm HCM về nhân dân vị trí, vai trò của đại đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng VN?

(1) K/N: nhân dân là toàn thể đồng bào, là anh em một nhà. Nhân dân không phân biệt giai cấp, tầng lớp, bộ phận trong XH, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo... (trừ những phần tử phản động, bán nước, hại dân).

+ HCM khẳng định, nhân dân có vị trí, vai trò rất to lớn, nhân dân là lực lượng có sức mạnh vô đích, mọi lực lượng đều ở nơi dân;

+ Trong chế độ mới dân là chủ và dân làm chủ, cán bộ đảng viên “là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, tức là phải tận tâm, tận phục vụ nhân dân;

+ Trong mọi hoạt động, cán bộ, đảng viên phải luôn đặt lợi ích nhân dân lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân.

+ Nhân dân là người xây dựng đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng;

+ Với phía nhân dân, với vai trò là công dân của NN dân chủ, nhân dân phải làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc.





6 Từ quan điểm về đại đoàn kết của HCM? Hãy so sánh về xây dụng đại đoàn kết ở địa phương Lào nơi Đ/c sinh hoạt?

(1) Quan điểm về đại đoàn kết của tư tưởng HCM: tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp về tuyên truyền vận động, tập hợp, tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế phục vụ sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH.

(2) Quan điểm HCM về vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng

+ Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược; là một nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng VN;

+ Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của Đảng cách mạng;

+ Về lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc;

+ Về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

+ Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc (có 4 nguyên tắc):

- đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong XH;

- tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân;

- đại đoàn kết toàn dân tộc một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ;

- đại đoàn kết toàn dân tộc phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê bình.

+ Phương pháp đại đoàn kết toàn dân tộc (có 3 phương pháp):

- phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục;

- phương pháp tổ chức là phương pháp xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống chính trị như Đảng, NN, Mặt trận...;

- phuong pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ.

(3) So sánh về xây dụng đại đoàn kết toàn dân tộc ở địa phương ở Lào







7 Hãy giải thích nội dung của tư tưởng HCM về NN của dân, do dân, vì dân?

+ NN của dân: dân là chủ, xác định vị thế và tư cách của người dân đối với NN, nhân dân là chủ thể của quyền lực NN. Nhân dân có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Theo HCM, cơ quan NN là công cụ để thực hiện quyền của nhân dân; cán bộ, công chức NN là người được nhân dân ủy quyền, trao quyền, đại diện cho nhân dân để gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước. Nhân dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm.

+ NN do dân: NN do dân làm chủ trên cả hai phương diện quyền và nghĩa vụ. Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan NN, nhân dân cử ra những người đại diện cho mình, đông thời có quyền bãi miễn đại biểu QH và đại biểu HĐND nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân có quyền tham gia công việc quản lý NN, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan NN, các đại biểu do mình cử ra. Nhân dân là người bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để có chi phí hoạt động cho NN.

+NN vì dân: là NN phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.





8 Hãy giải thích K/N tư tưởng của HCM về NN của dân, do dân, vì dân? So sánh xây dưng NN CHDCND Lào hiện nay?

(1) K/N tư tưởng của HCM về NN của dân, do dân, vì dân

+ NN của dân: dân là chủ, xác định vị thế và tư cách của người dân đối với NN, nhân dân là chủ thể của quyền lực NN. Nhân dân có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Theo HCM, cơ quan NN là công cụ để thực hiện quyền của nhân dân; cán bộ, công chức NN là người được nhân dân ủy quyền, trao quyền, đại diện cho nhân dân để gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước. Nhân dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm.

+ NN do dân: NN do dân làm chủ trên cả hai phương diện quyền và nghĩa vụ. Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan NN, nhân dân cử ra những người đại diện cho mình, đông thời có quyền bãi miễn đại biểu QH và đại biểu HĐND nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân có quyền tham gia công việc quản lý NN, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan NN, các đại biểu do mình cử ra. Nhân dân là người bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để có chi phí hoạt động cho NN.

+NN vì dân: là NN phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.

(2) So sánh xây dưng NN CHDCND Lào hiện nay?

Điều 2 Hiến pháp Lào 2015 khẳng định NN Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là NN dân chủ nhân dân, mọi quyền lực là của dân, do dân, vì dân

+ NN của dân: nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan NN, dân bỏ phiếu bầu các đại biểu QH ...

+ NN do dân: nhân dân trao quyền cho các cơ quan NN để thực hiện nhiệm vụ công chức xứng đáng...

+ NN vì dân: NN phục vụ lợi ích cho nhân dân...





9 Hãy phân tích nội dung của tư tưởng HCM về xây dựng, chỉnh đốn Đảng?

+ Xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị:

- về tư tưởng phải kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng; giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt.

- về chính trị là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn; là đảm bảo tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng; xây dựng và thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dưng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị...

+ Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ: xây dựng Đảng về tổ chức gắn liền với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng; Đảng phải là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh. Đông thời, gắn liền với vai trò, năng lực, phẩm chất, sưc chiến đấu của đội ngũ đảng viên. Vì vậy, Đảng phải nâng cao trình độ lý luận và chính trị, tăng cường tính tổ chức và tính kỉ luật của đảng viên.

+ Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, kỉ luật nghiêm minh và tự giác, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.

+ Xây dựng Đảng về đạo đức: đạo đức cách mạng làm nền tảng mới lãnh đạo được cách mạng, mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang, người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân; phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.





10 Hãy nêu nội dung cơ bản tư tưởng HCM về xây dựng, chỉnh đốn Đảng? So sánh xây dựng, chỉnh đốn Đảng NDCM Lào?

(1) Nội dung cơ bản tư tưởng HCM về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:

+ Xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị:

- về tư tưởng phải kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng; giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt.

- về chính trị là xây dựng đường lối chính trị đúng đắn; là đảm bảo tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng; xây dựng và thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dưng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị...

+ Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ: xây dựng Đảng về tổ chức gắn liền với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng; Đảng phải là một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh. Đông thời, gắn liền với vai trò, năng lực, phẩm chất, sưc chiến đấu của đội ngũ đảng viên. Vì vậy, Đảng phải nâng cao trình độ lý luận và chính trị, tăng cường tính tổ chức và tính kỉ luật của đảng viên.

+ Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, kỉ luật nghiêm minh và tự giác, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.

+ Xây dựng Đảng về đạo đức: đạo đức cách mạng làm nền tảng mới lãnh đạo được cách mạng, mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang, người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân; phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

(2) So sánh xây dựng, chỉnh đốn Đảng NDCM Lào theo 5 nguyên tắc:

+ Đảng NDCM Lào kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Kaison PHOMVIHAN và truyền thống tốt đẹp của Đảng, phát huy tính tiên phong, tính giáo dục, tính chiến đấu của giai cấp công nhân; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững manh.

+ Đảng NDCM Lào tổ chức tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Đảng có kỉ luật chặt chẽ, tôn trọng và thực thi Phát luật.

+ Đảng NDCM Lào kiên trì đoàn kết vững chắc trên nền tảng đường lối, chủ trương và điều lệ Đảng là nguyên tắc cơ bản của Đảng để đảm bảo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng;

+ Đảng NDCM Lào lấy nhân dân làm cốt, phục vụ nhân dân trung thực, hoạt động theo quần chúng, dựa vào quần chúng và quá trình cách mạng của quần chúng để dựng và phát triển Đảng.

+ Đảng NDCM Lào lấy tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

và 3 phương châm:

+ xây dưng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và phương pháp lãnh đạo, tăng cường bảo vệ Đảng, kiên quyết chống suy giảm bản lĩnh chính trị trong Đảng.

+ xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải coi trọng chất lượng làm cốt, kết nạp những người ưu tú, có tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp đảng, kiên quyết đưa người không xứng đáng ra khỏi đảng, không ngừng kiện toàn và phát triển đảng.

+ kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường lãnh đạo của Đảng với đề cao hiêu lực quản lý NN, phát huy vai trò chủ đạo của Mặt trận, hội liên hiệp chiến binh và các tổ chức quần chúng và tổ chức xã hội..

LEDUAN11 | CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA QUYỀN CON NGƯỜI

QUYỀN CON NGƯỜI CÓ 4 ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN LÀ:

1, TÍNH PHỔ BIẾN:
Là những quyền thiên bẩm, vốn có của con người và được thừa nhận cho tất cả mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch, địa vị xã hội, giới tính.
2, TÍNH KHÔNG THỂ CHUYỂN NHƯỢNG:
Là các quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Các quyền này gắn liền với cá nhân mỗi một con người và không thể chuyển nhượng cho bất kì người nào khác.
3, TÍNH KHÔNG THỂ PHÂN CHIA:
Gắn kết chặt chẽ với nhau, tương hỗ lẫn nhau, việc tách biệt, tước bỏ hay hạn chế bất kì quyền nào đều tác động tiêu cực đến giá trị nhân phẩm và sự phát triển của con người.
4, TÍNH LIÊN HỆ VÀ PHỤ THUỘC LẪN NHAU:
Dù là các quyền dân sự, chính trị hay các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng đều có mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Chẳng hạn quyền tiếp cận thông tin, quyền học tập là tiền đề để con người có thể có điều kiện thực hiện các quyền khác, không có quyền sống thì sẽ không có quyền nào cả. Quyền có việc làm cũng là tiền đề để thực hiện các quyền khác như quyền học tập, quyền có nhà ở, quyền có điều kiện sống xứng đáng, quyền sở hữu tư nhân…


LEDUAN11 | Q1 | BÀI 12 | NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA

1. HÀNG HÓA VÀ THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA: 
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua bán.
    Sản xuất hàng hóa ra đời là thành tựu lớn của nhân loại đạt được trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, nó đưa xã hội loài người từ một xã hội lạc hậu đến một xã hội văn minh. Với sự phát triển ngày này, sản xuất hàng hóa ngày càng được chú trọng và cải thiện chất lượng của hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trên thị trường.
1.1. HÀNG HÓA LÀ GÌ?
Trước khi trả lời câu hỏi hàng hóa có những thuộc tính nào? thì định nghĩa về hàng hóa là thông tin mà Quý vị cần nắm được.
Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua bán.
Hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể và một đồ vật muốn trở thành hàng hóa cần phải thỏa mãn 3 yếu tố:
– Hàng hóa là sản phẩm của lao động
– Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
– Thông qua trao đổi, mua bán.
1.2. CÁC THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA LÀ GÌ?
Hàng hóa có những thuộc tính nào là một câu hỏi thường được đặt ra khi tìm hiểu về vấn đề này. Trong mỗi hình thái kinh tế, xã hội, sản xuất hàng hóa lại có bản chất khác nhau nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị. Đây cũng là hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa. Cụ thể:
– Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, không kể nhu cầu đó được thỏa mãn trực tiếp hay gián tiếp. Giá trị sử dụng có những đặc trưng sau:
+ Hàng hóa có thể có một hay nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau. Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học – kỹ thuật.
+ Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng (tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cho cá nhân), nó là nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.
+ Hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại thì giá trị sử dụng càng cao.
– Giá trị hàng hóa: Là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh bên trong hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên ngoài bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Giá trị hàng hóa có những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
+ Là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở kinh tế hàng hóa
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA:
Hai thuộc tính của hàng hóa giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, được thể hiện như sau:
– Mặt thống nhất: Cả hai thuộc tính tồn tại đồng thời trong một sản phẩm, hàng hóa cụ thể. Mỗi sản phẩm, vật phẩm phải có đầy đủ cả hai thuộc tính này mới được gọi là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính, thì sản phẩm, vật phẩm không được coi là hàng hóa.
– Mặt mâu thuẫn: Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của họ là mặt giá trị thu lại lợi nhuận chứ không phải là giá trị sử dụng. Người bán rõ ràng có trong tay giá trị sử dụng nhưng cái mà họ quan tâm đối với hàng hóa là giá trị hàng hóa. Ngược lại,với người mua, họ lại rất cần giá trị sử dụng. Nhưng để có giá trị sử dụng, trước hết họ cần thực hiện giá trị hàng hóa sau đó mới có thể chi phối giá trị sử dụng. Vì vậy mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này chính là quá trình thực hiện giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian.

LEDUAN11 | Q1 | BÀI 18 | MỘT SỐ QUY LUẬT, PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Chủ nghĩa xã hội khoa học là con đường chỉ rõ hiện thực dựa vào khoa học để loại bỏ tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã mơ ước nhưng không thể thực hiện được.
    Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những thuật ngữ khá trừu tượng và là nội dung kiến thức khó. Chính vì thế, thuật ngữ này không được phổ biến rộng rãi trên thực tế.
>> Chủ nghĩa xã hội khoa học là gì?
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một thuật ngữ nêu ra để mô tả các lý thuyết về kinh tế, chính trị, xã hội. Thuật ngữ này đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng vì nó trình bày một cách có hệ thống và nêu lên được những điều kiện và tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học.
    Đó cũng là con đường chỉ rõ hiện thực dựa vào khoa học để loại bỏ tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã mơ ước nhưng không thể thực hiện được.
>> Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học:
– Tiền đề về văn hóa và tư tưởng:
+ Đầu thế kì XIX, nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học, văn hóa và tư tưởng.
    Đối với khoa học tự nhiên có thuyết tế bào của M.Sơlayden và T.Savanxo, thuyết tiến hóa, thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của M.Lomonoxop, kinh tế chính trị học Anh,…
Đối với thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
– Điều kiện về kinh tế và xã hội:
+ Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ Nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ nhiều mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
+ Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng lớn. Các phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
+ Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đạo trưởng thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
>> Nội dung của chủ nghĩa xã hội khoa học:
– Nội dung quan trọng của lý thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học, phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một thành tích của chủ nghĩa Mác-Lênin.
– Nội dung sử mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo Mác và Anghen là những người công nhân sẽ xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
– Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được Mác và Ăng-ghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cụ thể:
+ Địa vị kinh tế – xã hội khách quan tạo cho họ khả năng làm việc đó, có nghĩa là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp và khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh.
+ Giai cấp công nhân được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến độ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
+ Địa vị kinh tế – xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản và với tính cách như thế nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

LEDUAN11 | GIÁO TRÌNH TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN:
1, BÀI 1: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI:

LEDUAN11 | ƯU THẾ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA?

A. TÓM TẮT:

Thứ nhất: sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất.
Thứ hai: quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính khép kín của mỗi cá nhân, gia đình,…
Thứ ba: sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là qui luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, biết tính toán,…
Thứ tư: sự phát triển của sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước…

B. CHI TIẾT:

1. Sản xuất hàng hóa là gì?

Sản xuất hàng hóa được xem như là một kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra không những chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của riêng của người sản xuất ra hàng hóa đó mà nó còn đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhiều người khác thông qua việc tiến hàng trao đổi và buôn bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xóa bó nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội", xóa bó nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội. Sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp có đặc trưng và ưu thế cơ bản sau đây:

2. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa

Thứ nhất: sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán, không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng.
Thứ hai: lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang tính xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong kinh tế hàng hóa.
Thứ ba: mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải là giá trị sử dụng.

3. Ưu thế của sản xuất hàng hóa

Thường có 4 ưu điểm cơ bản của sản xuất hàng hóa được nhận định như sau:
So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa mang lại nhiều ưu thế vượt trội như:
Thứ nhất: sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất.
– Khai thác lợi thế về tự nhiên, xã hội, kĩ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất,…
– Thúc đẩy sự phát triển mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng mở rộng.
– Phá vỡ tính tự cung tư cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm tăng năng suất lao động và nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
– Khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính khép kín của mỗi cá nhân, gia đình,…
– Mở rộng quy mô lớn dựa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội phù hợp với xu thế thời đại.
– Tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật vào sản xuất…
– Thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là qui luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, biết tính toán,…
– Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
– Giảm chi phí sản xuất đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
Thứ tư: sự phát triển của sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước…
– Nâng cao đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần.
Bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng tồn tại nhiều mặt trái như phân hóa giàu – nghèo, khủng hoảng kinh tế – xã hội, phá hoại môi trường sinh thái xã hội,…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái, v.v..

LEDUAN11 | NỘI DUNG, HÌNH THỨC BIỂU HIỆN VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ?

CẠNH TRANH, CUNG – CẦU, SỨC MUA CỦA ĐỒNG TIỀN. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ NÀY LÀM CHO GIÁ CẢ HÀNG HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG TÁCH RỜI GIÁ TRỊ VÀ LÊN XUỐNG XOAY QUANH TRỤC GIÁ TRỊ CỦA NÓ. SỰ TÁC ĐỘNG, THAY ĐỔI NÀY LÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân loại do C. Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã và đang vận dụng những thành tựu vĩ đại này để phát triển kinh tế xã hội. Và một trong những nội dung quan trọng của những thành tựu này là quy luật giá trị.

Quy luật giá trị là gì?

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí sức lao động xã hội cần thiết.
Về nội dung quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, người tiến hành sản xuất phải có sự hao phí sức lao động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí sức lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là những lợi thế giúp người sản xuất đó có thể có ưu thế hơn so với những người sản xuất khác.

Nội dung của quy luật giá trị

Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa được thực hiện theo sự hao phí sức lao động xã hội cần thiết, tức là cần phải tiết kiệm lao động nhằm: đối với một hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa, có như vậy, việc sản xuất ra hàng hóa mới đem lại lợi thế cạnh tranh cao.
Thứ hai: Trong trao đổi hàng hóa phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được chi phí chí người sản xuất (chi phí hợp lý) và đảm bảo hoạt động sản xuất đó có lãi để tiếp tục tái sản xuất
Sự tác động, vận hành của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là tiền đề của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Vì vậy nên phụ thuộc vào giá trị của hàng hóa.
Trên thị trường còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung – cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự tác động, thay đổi này là cơ chế hoạt động của hoạt động của quy luật giá trị.

Mặt tích cực của quy luật giá trị

Quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời, nó còn thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm… Bởi vì trong sản xuất hàng hóa, để tồn tại và có lãi, mọi người sản xuất đều phải tìm làm cho mức hao phí lao động cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức lao động xã hội cần thiết.

Tác động của quy luật giá trị

– Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường.
Điều tiết sản xuất tức là điều khiển, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành kinh tế, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Nếu cung < cầu: giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy. Nếu Giá cả hàng hóa cao hơn giá trị sẽ làm cho mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá cả của hàng hóa tăng
Nếu cung > cầu, hàng hóa sản xuất ra nhiều so với nhu cầu của thị trường, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Vì vậy, người sản xuất ngừng hoặc giảm sản xuất; nếu giá cả giảm thì cầu hàng hóa sẽ tăng.
Cung = Cầu: giá cả trùng hợp với giá trị. Do đó, nền kinh tế người ta thường gọi là “bão hòa”.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị dựa vào sự thay đổi của giá cả hàng hóa trên thị trường. Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
– Thứ hai: Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể sản xuất có tính độc lập trong quá trình sản xuất và vì vậy nên sự hảo tổn lao động của các chủ thể cũng sẽ khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Nhà sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thua lỗ. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, nhà sản xuất phải dùng các biện pháp để tối đa hoa hóa chi phí sản xuất, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, tạo ra cho mình những lợi thế cạnh tranh.
– Thứ ba: Làm cho sự phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, từ đó mà thu được nhiều lợi nhuận, họ trở thành người giàu. Họ mở rộng thêm sản xuất, quy mô. Ngược lại những người không có được các lợi thế cạnh tranh sẽ dần thua lỗ, trở thành người nghèo.

LEDUAN11 | TÍNH CHẤT HAI MẶT CỦA LAO ĐỘNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

A. Lao động cụ thể: là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định:Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và của người thơ may có mục đích khác nhau, đối tượng, phương pháp, công cụ và kết quả sản xuất khác nhau.
+ Lao động cụ thể là cơ sở của phân công lao động xã hội.
KHKT càng phát triển các hình thức lao động cụ thể càng đa dạng, phong phú.
+ Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định.
+ Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn (xã hội càng phát triển các hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi).
B. Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về cái chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức lao động, tiêu hao sức cơ bắp, thần kinh của con người.
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
- Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử, chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì lao động sản xuất hàng hóa đó mới có tính chất là lao động trừu tượng.
- Lao động trừu tượng là lao động đồng nhất và giống nhau về chất.
C. Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa Trong nền sản xuất hàng hóa:
- Lao động cụ thể biểu hiện thành lao động tư nhân.
- Lao động trừu tượng biểu hiện thành lao động xã hội.
- Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa là: mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội.
- Biểu hiện:
¨ Sản phẩm do người sản xuất nhỏ tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu xã hội
¨ Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội chấp nhận.
¨ Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sản xuất thừa.

LEDUAN11 | TÍNH CHẤT HAI MẶT CỦA LAO ĐỘNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA? Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành nghề chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có thao tác riêng, đối tượng riêng, mục đích riêng và kết quả riêng.

Theo lý thuyết của Mác, hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính này tồn tại trong bất kỳ một loại hàng hóa nào, thiếu một trong hai thuộc tính này không được coi là hàng hóa. Sở dĩ, hàng hóa có hai thuộc tính đó không phải do hai lao động tạo ra mà vì lao động sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Vậy tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là gì?

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là gì?

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa bao gồm lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành nghề chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có thao tác riêng, đối tượng riêng, mục đích riêng và kết quả riêng.
Ví dụ: Lao động cụ thể của một người thợ mộc thì mục đích để sản xuất ra cái bàn, cái ghế; đối tượng lao động chính là gỗ; phương pháp lao động của người thợ mộc chính là thao tác về cưa, đục, đẽo, bào, khoan; phương tiện được người thợ mộc sử dụng là cái cưa, cái bào, cái đục, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra được những cái bàn, những cái ghế cụ thể
Đặc trưng của lao động cụ thể
– Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì càng tạo ra nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
– Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các hình thức lao động cụ thể ngày đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn, vì vậy, lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm đó, nó là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào.
– Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển và sự áp dụng khoa học công nghệ vào nền sản xuất, đồng thời cũng là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế, khoa học ở mỗi một thời đại.
– Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản xuất ra, giá trị sử dụng của các vật thể hàng hóa bao giờ cũng có hai nhân tố hợp thành đó là vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật chất làm nó thích ứng với nhu cầu của con người.

Lao động trừu tượng

Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó là sự tiêu hao sức lao động của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Lao động của người sản xuất hàng hóa nếu coi đó là sự hao phí trí óc, sức lực thần kinh và sức cơ bắp nói chung của con người chứ không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào thì gọi là lao động trừu tượng.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may nếu xét về mặt lao cụ thể thì rất khác nhau nhưng nếu gạt bỏ hết sự khác nhau ấy đi thì chúng có một điểm chung đó là đều phải hao phí sức lực trí óc, sức thần kinh của con người. Điểm chung đó là dù người thợ mộc hay người thợ may thì đều phải hao phí sức lao động, có thể là trí óc, cơ bắp, thần kinh của con người.
Đặc trưng của lao động trừu tượng
– Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa làm cơ sở cho sự ngang bằng trao đổi.
– Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hóa.
Mối quan hệ giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng có sự thống nhất với nhau thể hiện ở chỗ là cả lao động cụ thể và lao động trừu tượng đều nằm trong lao động của người sản xuất hàng hóa.
Giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng có những mâu thuẫn với nhau: lao động cụ thể là biểu hiện của lao động tư nhân, còn lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Mẫu thuẫn thể hiện ở chỗ:
– Sản phẩm của người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu xã hội, có thể thừa hoặc thiếu, sinh ra khủng hoảng kinh tế.
– Nếu mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán bị lỗ.
Mẫu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa làm cho sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa có khả năng khủng hoảng.

LEDUAN11 | THUỘC TÍNH HÀNG HÓA? NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LƯỢNG HÀNG HÓA? Ý NGHĨA

Lượng giá trị của hàng hóa là một khái niệm trong kinh tế chính trị Mac-Lenin chỉ về một đại lượng đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó, lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động, cụ thể là thời gian lao động xã hội cần thiết.

Lượng giá trị hàng hóa là gì?

Lượng giá trị của hàng hóa là một khái niệm trong kinh tế chính trị Mac-Lenin chỉ về một đại lượng đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó, lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động, cụ thể là thời gian lao động xã hội cần thiết. Lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

Thứ nhất: Năng suất lao động

– Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
– Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
– Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
+ Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người công nhân.
+ Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
+ Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất.
+ Trình độ tổ chức quản lý.
+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.
+ Các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.

Thứ hai: Cường độ lao động

– Cường độ lao động là đại dương chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian, nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
– Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
– Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau là tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó gần như là một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn, còn tăng cường độ lao động, làm cho lượng sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó, nó là yếu tố của ‘sức sản xuất” có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.

Thứ ba: Tính chất của lao động

– Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo tính chất của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể làm được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể làm được.
– Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.
Ngoài việc chia sẻ về các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa chúng tôi còn làm rõ ý nghĩa của chúng qua nội dung dưới đây của bài viết, mời Quý vị tiếp tục theo dõi.

Ý nghĩa của các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

– Thước đo lượng giá trị của hàng hóa: Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như một giờ lao động, một ngày lao động… Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau.
– Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra. Vậy phải chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị? C.Mác viết: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy”.
– Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với mộ trình độ kỹ thuật trung bình trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cing cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường.

LEDUAN11 | LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức con người. Đây là nguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, với cảm giác của con người và loài người nói chung, mặc dù người ta có thể chưa biết đến chúng.
Hai là, công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, các cảm giác của chúng ta (và mọi tri thức) đều là sự phản ánh, đều là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan: “Cảm giác là một hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nhưng không phải sự phản ánh thụ động, cứng đờ của hiện thực khách quan giống như sự phản ánh vật lý của cái gương trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Đó chính là quan niệm trực quan của chủ nghĩa duy vật siêu hình, không đánh giá đúng mức vai trò tích cực của chủ thể, của nhân cách và hoạt động thực tiễn của con người trong phản ánh.
Ba là, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung; là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tất nhiên, “… thực tiễn mà chúng ta dùng làm tiêu chuẩn trong lý luận về nhận thức, phải bao gồm cả thực tiễn của những sự quan sát, những sự phát hiện về thiên văn học…”. Do vậy, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.

2. Bản chất của nhận thức:

Nhận thức là một loại hoạt động của con người, là quá trình phản ánh chủ động, tích cực, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc người. Hoạt động đó được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn; lấy thực tiễn làm cơ sở, làm mục đích, làm động lực và làm tiêu chuẩn xác định tính đúng đắn của các tri thức ấy.
    Chủ thể nhận thức là con người với bản chất xã hội nên quá trình nhận thức thường bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, về kinh tế, chính trị -xã hội, truyền thống văn hoá; đặc điểm tâm sinh lý, đặc biệt là năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể.
    Khách thể nhận thức là hiện thực khách quan trong phạm vi hoạt động của con người. Nhận thức là sự phản ánh của chủ thể đối với khách thể. Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới khách quan mà con người không thể biết được. Những tri thức của con người về thế giới được thực tiễn kiểm nghiệm là tri thức xác thực, tin cậy.
    Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, tức thì mà là sự phản ánh chủ động, tích cực, có sáng tạo; từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ hiện tượng đến bản chất.
    Ý nghĩa của vấn đề: Nhận thức không chỉ phản ánh những cái đã và đang tồn tại mà còn phản ánh những cái sẽ tồn tại, có thể giúp con người dự báo tương lai. Nhận thức không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.

3. Các giai đoạn của nhận thức:

Nhận thức là quá trình biện chứng từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và đến thực tiễn…

– Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan bằng các giác quan, qua các hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
    Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực, là kết quả tác động của sự vật vào giác quan con người. Nó chỉ phản ánh được những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật nh­ư nóng, lạnh, màu sắc, mùi vị… Cảm giác có vai trò to lớn trong quá trình nhận thức và thay đổi khi được rèn luyện.
    Tri giác là sự phản ánh đối tượng trong tính toàn vẹn, trực tiếp tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại. Từ tri giác, nhận thức cảm tính chuyển lên hình thức cao hơn là biểu tượng.
    Biểu tượng là hình ảnh về sự vật được tái hiện trong đầu một cách khái quát, khi không còn tri giác trực tiếp với sự vật. Nó chỉ giữ lại những nét chung về bề ngoài của sự vật. Biểu tượng cũng như­ cảm giác, tri giác, đều là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng biểu tượng phản ánh sự vật một cách gián tiếp và có thể sáng tạo ra một biểu tượng khác tương tự.
    Đặc điểm chung của giai đoạn nhận thức cảm tính là phản ánh có tính chất hiện thực, trực tiếp, không thông qua khâu trung gian. Sự phản ánh đó tuy phong phú, sinh động, nhưng chỉ là phản ánh bề ngoài, hiện tượng của sự vật.
– Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở tài liệu do trực quan sinh động đưa lại. Chỉ qua giai đoạn này, nhận thức mới nắm được bản chất, quy luật của hiện thực. Tư duy trừu tượng được biểu hiện dưới các hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy lý.
    Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng phản ánh cái chung, bản chất, tất yếu của sự vật. Khái niệm được hình thành là từ hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Khái niệm được diễn đạt bằng ngôn ngữ là từ ngữ, đó là vật liệu đầu tiên để xây dựng nên những tri thức khoa học. Khi vận dụng, phải linh hoạt, mềm dẻo cho phù hợp.
Phán đoán là một hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên sự liên kết, vận dụng những khái niệm đã có, nhằm khẳng định hay phủ định, một hay nhiều thuộc tính sự vật. Mỗi phán đoán được biểu đạt bằng một “mệnh đề” nhất định.
    Phán đoán cũng không ngừng vận động, phát triển từ đơn giản đến phức tạp, gắn liền với quá trình phát triển của thực tiễn, nhận thức, nên nó là hình thức để biểu đạt quy luật khách quan của sự vật, hiện tượng. Phán đoán có nhiều loại như phán đoán khẳng định, phủ định, đơn nhất, đặc thù…
    Suy lý là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Nếu nh­ư phán đoán dựa trên sự liên kết các khái niệm, thì suy lý dựa trên cơ sở những phán đoán đã được xác lập, và những mối liên hệ có tính quy luật của những phán đoán đó, để đi đến những phán đoán mới có tính chất kết luận.
    Suy lý không chỉ cho phép ta biết được những cái đã, đang xảy ra, mà còn cho biết cả những cái sẽ xảy ra. Nếu có sự phân tích sâu sắc, toàn diện, nắm chắc được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì có thể dự báo được tương lai của chúng.
    Giai đoạn nhận thức lý tính tuy không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan, nhưng phản ánh trừu tượng, khái quát, vạch ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Đó là nhận thức đáng tin cậy, gần với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy chúng có sự khác nhau về vị trí, mức độ và phạm vi phản ánh, nhưng có liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi giai đoạn đều có mặt tích cực và mặt hạn chế. Giai đoạn nhận thức cảm tính, tuy nhận thức hiện thực trực tiếp thế giới khách quan, nhưng đó chỉ là nhận thức những hiện tượng bề ngoài, giản đơn, nông cạn. Còn nhận thức lý tính, tuy không phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng, nhưng vạch ra những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong, vạch ra quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.
    Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng làm đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa chúng có liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện gì hết nếu thiếu tài liệu của nhận thức cảm tính đưa lại.
    Ngược lại, nhận thức lý tính sau khi đã hình thành thì tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó nhận thức nhạy bén hơn, chính xác hơn trong quá trình phản ánh hiện thực. Tư duy trừu tượng phản ánh gián tiếp hiện thực nên dễ có nguy cơ phản ánh sai lạc. Do vậy, nhận thức của tư duy trừu tượng phải quay về thực tiễn, để thực tiễn kiểm nghiệm, từ đó mà phân biệt giữa nhận thức đúng với nhận thức sai.
    Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Kết thúc vòng khâu này lại là điểm khởi đầu của vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình vô tận, liên tục của sự nhận thức chân lý khách quan.

4. Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức:

+ Thực tiễn: là toàn bộ hoạt động vật chất, cảm tính, có tính chất lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới khách quan để phục vụ nhu cầu của con người. Hoạt động thực tiễn rất phong phú nhưng có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị- xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức. Thực tiễn cung cấp những tài liệu hiện thực, khách quan, làm cơ sở để con người nhận thức; trực tiếp tác động vào thế giới khách quan, qua đó đối tượng bộc lộ ra những đặc trưng, thuộc tính, những quy luật vận động để con người nhận thức được.
    Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn thường xuyên vận động, phát triển nên nó luôn luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho nhận thức. Hoạt động của con người, bao giờ cũng có mục đích, yêu cầu và tổ chức thực hiện mà không phải lúc nào cũng có sẵn trong đầu óc. Nếu mục đích, yêu cầu, cách thức thực hiện đúng thì hoạt động thực tiễn thành công. Nhận thức của con người không chỉ để giải thích thế giới mà là để cải tạo thế giới theo nhu cầu, lợi ích của mình. Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức.
    Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó vừa có là hiện thực phong phú, vừa có tính phổ biến là hoạt động vật chất khách quan, có tính lịch sử – xã hội. Hiện thực lịch sử xảy ra một lần nhưng nhiều người nhận thức và nhận thức nhiều lần khác nhau.
    Người ta không thể lấy nhận thức để kiểm tra nhận thức, không thể lấy nhận thức này làm chuẩn để kiểm tra nhận thức kia vì chính bản thân nhận thức được dùng làm tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức khác chưa chắc đã đúng. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn thật sự, duy nhất của chân lý.
+ Ý nghĩa của vấn đề: Phải đảm bảo sự “thống nhất lý luận và thực tiễn’’, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, luôn có ý thức tự giác kiểm tra mọi nhận thức của mình thông qua thực tiễn, không cho phép con người biến một hiểu biết bất kỳ nào đó thành chân lý vĩnh viễn, bất biến cho mọi lúc, mọi nơi, đồng thời phải chống mọi biểu hiện của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

5. Chân lý:

+ Chân lý: là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan, được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lý là kết quả quá trình con người nhận thức thế giới khách quan.
    Chân lý có tính khách quan. Chân lý tuy là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó chính là hiện thực khách quan, không lệ thuộc vào con người.
    Chân lý có tính cụ thể, không có chân lý chung chung trừu tượng đúng cho mọi điều kiện hoàn cảnh, mà chỉ có chân lý cụ thể, xác định, gắn với điều kiện, hoàn cảnh, gắn với không gian, thời gian cụ thể.
    Chân lý có tính tương đối và tính tuyệt đối. Chân lý tương đối là tri thức của con người phản ánh đúng hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện, chưa bao quát hết thảy mọi mặt của hiện thực khách quan và luôn luôn bị chế ngự bởi điều kiện lịch sử. Chân lý tuyệt đối là tri thức của con người về thế giới khách quan nhưng đạt được sự hoàn toàn đúng đắn, đầy đủ và chính xác về mọi phương diện.
+ Ý nghĩa của vấn đề: Người theo chủ nghĩa duy vật không thể đem suy nghĩ chủ quan của mình làm căn cứ cho lý luận. Trong một giới hạn nhất định nếu thoát ly không gian, thời gian thì chân lý có thể biến thành sai lầm và ngược lại.

LEDUAN11 | NHỮNG QUY LUẬT CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại:

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.1. Khái niệm chất, lượng:

* Khái niệm chất:

Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng.
    Như vậy, tạo thành chất của sự vật, hiện tượng chính là các thuộc tính khách quan vốn có của nó nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật, hiện tượng phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản.
    Mặt khác, chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi câu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể. Vì vậy, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, hiện tượng, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.

* Khái niệm lượng:

Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Với khái niệm này cho thấy: một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật, hiện tượng đó.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật, hiện tượng chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong môi quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong môi quan hệ khác lại là lượng.

1.2. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:

Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất, ơ một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sư thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
    Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
    Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất.      Giới hạn đó chính là điểm nút Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến Sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
    Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, v.v..
    Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
    Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
    Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
    Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.
    Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, hiện tượng. Vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
    Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.

2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân” của phép biện chứng. Theo V.I. Lênin, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
    Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng.

2.1. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn:

* Khái niệm mâu thuẫn:

Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
    Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức, V.V..

* Các tính chất chung của mâu thuẫn:

Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến. Theo Ph. Ăngghen: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn... sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là một cái khác.
    Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận, - và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận”.
    Mâu thuẫn không những có tính khách quan, tính phổ biến, mà còn có tính đa dạng, phong phú. Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, v.v.. Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.

2.2. Quá trình vận động của mâu thuẫn:

Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó. V.I. Lênin viết: “Sự đồng nhất của các mặt đối lập (“sư thống nhất của chúng, nói như vậy có lẽ đúng hơn? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đều đúng)”. Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử, cụ thể.
    Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, Sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng. Theo V.I. Lênin: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
    Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đổi lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. V.I. Lênin khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.

2.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sư vận động và phát triển. V.I. Lenin đã cho rằng: “Sự phản đối của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng”.
    Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất

3. Quy luật phủ định của phủ định:

Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”.

3.1. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng:

Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.
    Mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó có những sự phủ định chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển. Những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng được gọi là sự phủ định biện chứng.
    Với tư cách không chỉ là học thuyết về sự biến đổi nói chung mà căn bản là học thuyết về sự phát triển, phép biện chứng duy vật chú trọng phân tích không chỉ sự phủ định nói chung mà căn bản là sự phủ định biện chứng.
    Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật, hiện tượng; tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân nó. Vì thế, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định.
    Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật. Phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà trái lại trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. V.I. Lênin cho rằng: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng..., mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển...”.
    Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

3.2. Phủ định của phủ định:

Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy ốc”.
    Trong chuỗi phủ định tạo nôn quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức “phủ định của phủ định” sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng.
    Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình thức “xoáy ốc”, đó cũng là tính chất “phủ định của phủ định”. Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng.
    Theo V.I. Lênin, “Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến “sự thống nhất” với cái bị khẳng định, - không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch trơn, một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi”.
    Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình thức con đường “xoáy ốc”. V.I. Lênin đã khái quát con đường đó như sau: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường tháng...”.
    Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc dường như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những “vòng khâu” của quá trình đó.
    Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật, hiện tượng cũ, phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph. Ăngghen đã viết: "... phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy”.

3.3. Ý nghĩa phương pháp luận:

Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động nhận thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.
    Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trộ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.
    Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự. vật, hiện tượng phát triển theo hướng tiến bộ.
1
1
2
2
3
3
4
4
5
5
6
6
7
7
8
8
9
9
10
10
11
11
12
12

Featured Posts

LEDUAN11 | 2024 | Khai giảng Lớp Trung cấp Lý luận chính trị, Khóa 13 cho cán bộ 2 tỉnh Salavan và Savannakhet nước CHDCND Lào

 

School Legislation

Show all posts

Class Schedule

Show all posts

News

Show all posts

Lesson

Show all posts

Visit

Show all posts

Various Techniques

Show all posts

Happy birthday

Show all posts

Student Information

Show all posts

Other

Show all posts

Maps

Facebook

Exchange Rate

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
12

Followers

Views

Qr Bank & Logo

QR BANK
Qr Bank

LOGO
Logo

© Copyright LEDUAN131474 ,Generation 11