Showing posts with label Lesson. Show all posts
Showing posts with label Lesson. Show all posts

LEDUAN11 | TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG QUẢN LÝ CẤP PHÒNG P1

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BỘ NỘI VỤ

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP PHÒNG (Ban hành kèm theo Quyết định số 1151/QĐ-BNV ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ)

Phần I
KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG CỦA LÃNH ĐẠO CẤP PHÒNG

Chuyên đề 1
TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CỦA LÃNH ĐẠO CẤP PHÒNG

1. Quan niệm về lãnh đạo, quản lý
a) Quan niệm về lãnh đạo
Các tổ chức, dù là công hay tư, quy mô lớn hay nhỏ, hoạt động trong ngành, lĩnh vực nào, thường gồm nhiều thành viên có xuất phát điểm, động lực, năng lực, cũng như cách nhìn nhận khác nhau về tổ chức, về vị thế của bản thân và cách thức theo đuổi mục tiêu. Chính vì vậy, sự khác biệt, thậm chí xung đột, về cách thức tồn tại, phát triển giữa các cá nhân hay nhóm cũng như những đóng góp họ mang đến cho tập thể là một tất yếu khách quan. Điều này chỉ ra rằng, trong khi nhu cầu phối hợp là tự nhiên, thì nguy cơ bất phối hợp cũng là điều đương nhiên có thể xảy ra,
        Lãnh đạo, quản lý đã xuất hiện để giải quyết nhu cầu tổ chức lao động, nhằm tạo ra sự hợp lý trong lựa chọn ưu tiên, trong phân công và phối hợp lao động của các cá nhân, các nhóm, các hoạt động riêng lẻ hay các tiểu quá trình một cách hệ thống, một cách khoa học'. Yêu cầu này càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh tình trạng khan hiếm nguồn lực tỷ lệ nghịch với đòi hỏi ngày càng cao của cá nhân và cộng đồng.

Xét về bản chất, lãnh đạo, quản lý đồng nhất. Đó là các nỗ lực mang tính hệ thống nhằm phát huy sự tham gia và đóng góp của các bên liên quan để tạo ra sự cộng hưởng trong tư duy (cùng nhìn về một hướng) và cộng lực (cùng chung tay, chung sức để tạo ra kết quả như trông đợi trong hành động - sức mạnh tổng hợp nhằm hiện thực hóa tầm nhìn và mục tiêu của tổ chức.

        Sự đồng nhất về bản chất của lãnh đạo và quản lý là cùng một hệ thống nỗ lực nhằm: Một là, tạo ra thay đổi: Lãnh đạo và quản lý, thông qua các kỹ năng, nghệ thuật, công cụ khác nhau đều nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra. Mục tiêu đó là một hiện trạng mới trong tương lai nhưng chất lượng tốt hơn so với hiện tại. Điều đó có nghĩa là trong quá trình thay đổi cách tiếp cận, phương thức, kết quả của quá trình, các đối tượng lãnh đạo, quản lý, thì đội ngũ lãnh đạo, quản lý cũng cần có năng lực tự thay đổi để đón nhận, dung dưỡng, khích lệ và tạo ra thay đổi trong tổ chức hoặc xã hội, nhằm tạo ra chuyển biến xã hội như đã định. Hai là, đối mặt với xung đột. Ba là, sử dụng quyền lực để dẫn dắt tổ chức.

        Sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý nằm ở quá trình và phương thức thể hiện các khía cạnh bản chất đó và đạt được mục tiêu chung. Đó là:

        - Cách nhìn nhận đối tượng và mục tiêu tác động;

        - Cách tạo dựng, thực hành, duy trì và phát triển quyền lực để huy động lực lượng và cam kết của đối tượng lãnh đạo, quản lý bao gồm cả các bên liên quan và điều này dẫn đến sự cân nhắc để lựa chọn:

        - Các chiến lược, kỹ thuật khác nhau để đạt được mục tiêu chung. -

Quản lý, theo cách hiệu phổ biến là sự tác động có hệ thống, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng, làm cho họ hành động theo mục tiêu đã định của quản lý. Nói một cách đơn giản thì quản lý là nỗ lực “quản”, nắm bắt, phát huy và dẫn dắt con người, các quá trình xã hội và các nguồn lực vật chất, kỹ thuật) thông qua “lý”.

        Lý, theo nghĩa thứ nhất, là tính hợp pháp của quyền lực theo thứ bậc. Quản lý chú trọng tác động vào lý trí, vào trí tuệ của người khác. Lý, theo nghĩa thứ hai, tập trung vào sự hợp lý, logic, tính đúng đắn, hợp lý của hệ thống các quy trình, thủ tục, các lập luận logic, chặt chẽ, rành mạch, sự thỏa mãn các chuẩn mực hoặc các quy tắc đã được thống nhất và được thông qua để đảm bảo tự tối ưu về trình tự và kết quả. Quản lý, do vậy, tạo ra động lực làm việc ở các bên liên quan trên cơ sở các ưu thế của sự tuân thủ, ổn định, nề nếp, trật tự trong và ngoài tổ chức. Trong lãnh đạo cấp phòng, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước, sự tuân thủ theo pháp luật, theo mệnh lệnh của lãnh đạo là một điều kiện để tạo ra sự nề nếp và trật tự để đội ngũ có thể tập trung và tư duy cải thiện công việc thay vì đối mặt với sự hỗn loạn, mỗi người một kiểu.

        Thiếu quản lý sẽ không có sự logic, tính hợp lý, nề nếp, trật tự, tổ chức sẽ rơi vào tình trạng rối loạn, vô kỷ luật, “trên bảo dưới không nghe”. Theo đó, các kỹ năng quản lý cơ bản là:
        - Thiết kế công việc.
        - Lập kế hoạch.
        - Xây dựng cơ cấu tổ chức.
        - Xây dựng quy chế, thủ tục.
        - Phân công công việc.
        - Tổ chức quá trình thông tin, giao tiếp.
        - Cung cấp các điều kiện vật chất cho thực thi.
        - Giám sát và kiểm tra hoạt động.
        Lãnh đạo, trong khi đó, huy động sự cam kết và các nguồn lực thông qua “đạo”- một phương thức tác động đặc biệt.
        Đạo theo nghĩa thứ nhất, là đường, là con đường, là cách thức mới. Lãnh đạo đồng nghĩa với định hướng, tìm kiếm các hướng đi chính, các hướng đi lớn. Lãnh đạo tạo ra các thay đổi có tính chiến lược thông qua tầm nhìn và hệ thống các chiến lược. Lãnh đạo có sức hấp dẫn từ việc theo đuổi một con đường mới, mới lạ và hứa hẹn tốt đẹp hơn khiến người ta tò mò hoặc bị kích thích mà ủng hộ và đi theo. Tiếp đó, lãnh đạo tạo ra con đường mới thông qua việc tập trung vào các chiến lược - vào các điểm then chốt, đôi khi có ý nghĩa sống - còn, để thay đổi toàn bộ cục diện, tạo ra những kết quả hoàn toàn mới ở mức độ và phạm vi tổng thể và lâu dài của tổ chức hoặc xã hội. Lãnh đạo, do vậy, đồng 
nghĩa với tìm kiếm và tạo ra thay đổi. Nó kích hoạt, tác động vào óc tò mò và ý muốn tìm kiếm cái mới của con người. Trong lãnh đạo cấp phòng, việc tìm kiếm phương pháp mới để tổ chức thực thi công việc, nhiệm vụ, hay thay đổi trong cách sử dụng, phát huy nhân viên nào đó cũng có ý nghĩa quan trọng như việc duy trì sự ổn định. Các nỗ lực này kích hoạt sự quan tâm, bỏ đi một số thói quen không còn phù hợp và gợi ý việc thử nghiệm cái mới. Điều này không chỉ giúp tăng năng suất mà còn giúp giảm stress thông qua hạn chế sự nhàm chán, một chiều do những công việc thường ngày tạo ra.
        “Đạo” theo nghĩa thứ hai, là sự chân chính, đạo đức, là đức hạnh, là cái tốt và sự đẹp, là Chân, Thiện, Mỹ, khiến người ta trân trọng, cảm phục và đi theo. Đạo, theo nghĩa này, tạo ra niềm tin, giúp người ta nhận ra, xác định được, và có hệ thống giá trị để đi theo. Đến lượt nó, các giá trị, niềm tin đó sẽ dẫn dắt hành vi của người được lãnh đạo. Nó nhấn mạnh vai trò làm gương và sức mạnh nêu gương của người lãnh đạo. Điều này có nghĩa, lãnh đạo tác động vào tâm hồn, vào cảm xúc, vào sự xúc động hay đam mê của người khác, thẩm thấu vào họ, hấp dẫn và lôi cuốn họ, làm cho họ ủng hộ và đi theo mà không nhất thiết đòi hỏi đầy đủ các lập luận hay bằng chứng có tính logic. Nỗ lực lãnh đạo là thông qua giá trị để tạo ra đam mê, niềm tin, niềm tự hào và tự giác cộng lực vì mục tiêu chung. Điều này khiến người ta có được sức mạnh, có sự thôi thúc từ bên trong để hành động, theo đuổi và tự chịu trách nhiệm về hành trình cũng như kết quả của mình. Chính vì vậy, lãnh đạo có ưu thế nhờ việc khích lệ đổi mới, sáng tạo và tạo ra sự tự nguyện mà không ép buộc.
        Cho nên, thiếu lãnh đạo, mọi nỗ lực, dù mang tính tích cực, đều có thể trở nên vụn vặt, manh mún, thiếu nhất quán, không đi đến đâu, tình trạng “vô đạo”, bất chấp luân thường có thể xảy ra. Theo đó, các kỹ năng lãnh đạo nói chung và của cấp phòng gồm có:
        - Xây dựng và chia sẻ tầm nhìn lãnh đạo. 
        - Hoạch định chiến lược. 
        - Xây dựng liên minh: bao gồm tạo động lực và truyền cảm hứng. 
        - Xây dựng và thay đổi văn hóa tổ chức.

TÀI LIỆU HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH P1-B7

Câu 1. Hãy phân tích thực trạng và giải pháp củng cố khối liên minh công – nông – trí thức? Liên hệ thực tế.

1. Đặt vấn đề

2. Nội dung


2.1. Khái niệm liên minh công – nông – trí thức

Liên minh công – nông – trí thức là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác… của công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng CNXH.

2.2. Thực trạng khối liên minh công – nông – trí thức ở nước ta hiện nay

2.2.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay

- Về giai cấp công nhân: hiện nay vẫn còn hạn chế về số lượng, một bộ phận công nhân có tay nghề chưa cao, ý thức giác ngộ giai cấp, tính tổ chức kỷ luật còn hạn chế. Điều này làm ảnh hưởng đến quá trình liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

- Về giai cấp nông dân, nhờ liên minh được với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức nên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển nông nghiệp, đời sống của nông dân từng bước được cải thiện rõ rệt và từng bước được nâng cao. Tuy nhiên sự liên kết với công nghiệp nhiều nơi chưa chặt chẽ làm cho đời sống nông dân còn nhiều khó khăn.

- Về đội ngũ trí thức, mặc dù đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình thực hiện liên minh, song đến nay, đội ngũ trí thức nước ta số lượng còn ít, hoạt động nghiên cứu khoa học nhiều khi còn xa rời thực tiễn và tính ứng dụng vào sản xuất nông – công nghiệp chưa cao, tình trạng lãng phí và chảy máu chất xám còn diễn ra khá phổ biến.

2.2.2. Thực trạng (về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội)

- Về chính trị:

Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.

Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.

Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn.

- Về kinh tế

Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:

+ Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức”

+ Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.

+ Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN.

+ Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.

Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.

- Về văn hóa - xã hội

+ Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.

+ Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.

+ Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.

+ Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

+ Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1 cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

2.3. Giải pháp củng cố khối liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH

2.3.1. Thứ nhất, quán triệt thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức

- Đối với giai cấp công nhân: thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển KT – XH, CNH, HĐH. Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân. Nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động…

- Đối với giai cấp nông dân: nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đào tạo trình độ cho nông dân, tăng đầu tư của Nhà nước và xã hội trong ứng dụng công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp…

- Đối với đội ngũ trí thức: tạo môi trường thuận cho hoạt động của trí thức, nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.

2.3.2. Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới là phương thức căn bản và quan trọng để thực hiện liên minh công – nông – trí thức ở Việt Nam hiện nay.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thủy lợi hóa, cơ giới hóa, thông tin hóa trong sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới. Hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn nhằm tạo môi trường và điều kiện để giai cấp nông dân liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức.

2.3.3. Thứ ba, tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế về Pháp lênh dân chủ cơ sở.

Thực hiện tốt vấn đề này sẽ có tác động trực tiếp đến nội dung liên minh về chính trị và nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể đối với việc tăng cường khối liên minh.

2.3.4. Thứ tư, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp của công nhân, nông dân và trí thức.

- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng của tổ chức hoạt động của tổ chức công đoàn trong các loại hình doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của giai cấp công nhân.

- Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt đọng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân thực hiện các chương trình – dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống nông dân…

- Nâng cao chất lượng hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật từ TW đến địa phương trong công tác vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức.

3. Kết luận

4. Liên hệ thực tế

<<<<<<      >>>>>>

TÀI LIỆU HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH P1-B6

Bài 6. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Câu 1. Anh chị hãy trình bày đặc trưng của xã hội XHCN. Liên hệ thực tế.

Trả lời:


Xã hội XHCN theo quan điểm của Mác – Lênin là giai đoạn thấp của XHCS hay còn gọi là giai đoạn đầu của XHCS. Có nhận thức khoa học về xã hội XHCN thì chúng ta mới có thể tìm ra những nội dung cụ thể, hình thức, bước đi và những điều kiện cơ bản để xây dựng xã hội đó ở nước ta. Trước hết cần phải hiểu rõ những đặc trưng cơ bản được đúc kết từ lý luận và thực tiễn xây dựng xã hội XHCN hiện nay.

Đầu tiên phải kể đến là đặc trưng về chính trị.

Xã hội XHCN xác lập quyền làm chủ của người dân lao động: thiết lập chế độ dân chủ XHCN – nền dân chủ triệt để, toàn diện, cho đa số. Nhà nước XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Thực chất đó là nhà nước do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội.

Xã hội XHCN xây dựng hệ thống quyền lực tối cao nhất thuộc về nhân dân. Theo Lênin, nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc của nhà nước, thể hiện tính tự giác, tự quản của nhân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ ràng hơn.

Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, thõa mãn nhu cầu ngày càng cao của nhân loại. Xã hội XHCN chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất vì chế độ tư hữu TBCN bóc lột giá trị thặng dư của đại đa số lao động. Xã hội XHCN mang trong mình kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường, vẫn còn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động…

Nền dân chủ XHCN lấy chủ nghĩa Mac – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Nhân dân được nâng cao trình độ dân trí, có điều kiện để phát triển cá nhân, làm chủ những giá trị văn hóa – tinh thần.

Liên hệ:

Xã hội XHCN cũng có đặc trưng cơ bản về kinh tế.


Nền kinh tế trong xã hội XHCN phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ, hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu từng bước được xác lập, hoàn thiện. Xã hội xã hội chủ nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có lực lượng sản xuất cao (như G7...) thì lên xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị thành công. Khi đó chính trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển cao là một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản. Ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt Nam và các nước khác) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn và ngày càng vững chắc.

Hình thành lao động tập thể trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện. Tổ chức quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối theo lao động. Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và mục đích đó mà các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho đến nay vẫn còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới của bản thân nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao động mới cũng có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của mình trước xã hội, trước mọi công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn thiện chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động của họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội. Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.

Liên hệ:

Đặc trưng cơ bản tiếp theo của xã hội XHCN là đặc trưng về quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người.


Xã hội XHCN thực hiện sự giải phóng con người ra khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính trị suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh tế, mức sống vật chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã không còn chế độ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ xã hội. Đây là những tiền đề chính trị, kinh tế khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện việc giải phóng con người và phát triển con người toàn diện. Không có những tiền đề cơ bản đó không thể giải phóng con người, không thực hiện được công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh xã hội... Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước, trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh (dù họ ở thành phần kinh tế nào...) trước pháp luật chung của nhà nước; bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, tôn giáo. Quan hệ giữa người với người theo phương châm “mọi người vì một người, một người vì mọi người.

Liên hệ:

Tiếp theo là đặc trưng về văn hóa.


Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng tư tưởng chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hoá, xã hội, tôn giáo v.v.). Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Do đó, đời sống tư tưởng - văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vừa xây dựng nền văn hóa tiến bộ, vừa đấu tranh với tàn dư lạc hậu của nền văn hóa cũ.

Liên hệ:

Đặc trưng cuối cùng của xã hội XHCN là đặc trưng về quan hệ đối ngoại.


Xã hội XHCN tuân thủ nguyên tắc hòa bình hữu nghị, hợp tác cùng có lợi và không xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của nhau.

Trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập.

Lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế được giải quyết thích hợp trong xây dựng CNXH. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Liên hệ:

Câu 2. Anh chị hãy làm rõ sự phát triển của hệ thống lý luận CNXH ở nước ta từ khi đổi mới đến nay.


Lý luận về CNXH ở nước ta dựa trên hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH ở Việ Nam nói riêng. Lý luận về CNXH ở nước ta có sự phát triển rõ rệt qua từng thời kỳ cách mạng của dân tộc.

Trước đổi mới (từ 1954 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986), hệ thống lý luận CNXH ở nước ta có thể khái quát như sau:

- Sử dụng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân - sản phẩm của cách mạng giải phóng dân tộc - chuyển sang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản với những chức năng, nhiệm vụ mới hướng vào mục tiêu xây dựng xã hội XHCN, bảo vệ thành quả cách mạng và Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất. Chế độ chính trị với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện nền dân chủ XHCN.

- Xóa bỏ chế độ người bóc lột người và mọi sự áp bức, bất công. Xác lập và xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu: toàn dân (quốc doanh) và tập thể. Không chấp nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Xây dựng và phát triển nền kinh tế theo hướng sản xuất lớn XHCN.

- Tập trung xây dựng và phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH với sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ và cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, không ngừng nâng cao năng suất lao động.

- Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, xác lập và hoàn thiện cơ chế quản lý theo kế hoạch, tập trung, thống nhất và quyết định hành chính của Nhà nước. Nhà nước chi phối mọi hoạt động và quan hệ kinh tế-xã hội, quản lý chặt chẽ các hoạt động từ sản xuất đến lưu thông, phân phối sản phẩm và hình thành chế độ bao cấp của Nhà nước trong cả sản xuất và tiêu dùng.

- Xây dựng và phát triển nền văn hóa có nội dung XHCN và có tính dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng con người mới XHCN, giáo dục sâu sắc tư tưởng, lý tưởng CSCN và chủ nghĩa yêu nước, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

- Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và cuộc sống bình yên của nhân dân. Nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa quốc tế XHCN, mở rộng quan hệ đối ngoại, vì hòa bình hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia dân tộc.

Từ khi đổi mới (tức từ Đại hội VI của Đảng) đến nay, lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh càng được củng cố và phát triển để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước cũng như tình hình quốc tế. Qua các kỳ Đại hội của Đảng, sự đổi mới và phát triển trong lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng rõ ràng hơn.

- Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình, chỉ ra những yếu kém trong tư duy, lý luận của Đảng nói chung, tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nói riêng. Cũng từ đây Đảng ta hoạch định đường lối đổi mới toàn diện trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn những quy luật khách quan và nội dung, bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí, nóng vội. Chú trọng đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật bảo đảm cho sự đổi mới đúng định hướng, có nguyên tắc và phát triển có hiệu quả thiết thực trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đảng coi trọng tổng kết để không ngừng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, trong đó có nhận thức lý luận về quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

- Sự kiên trì đổi mới trong chỉ đạo và tổ chức thực tiễn, đồng thời Đảng đổi mới tư duy, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là lý luận về CNXH và quá độ lên CNXH được khẳng định ở Đại hội VII của Đảng năm 1991. Lần đầu tiên Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu, mô hình 6 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam, làm rõ những nội dung, hình thức, bước đi của thời kỳ quá độ. Xã hội XHCN ở Việt Nam là một xã hội:

1. Do nhân dân lao động làm chủ;

2. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;

3. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

4. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;

5. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

6. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Đại hội VII cũng đề ra 7 phương hướng cơ bản để xây dựng CNXH ở nước ta (Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đủ quyền dân chủ của nhân dân; Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cait thiện đời sống nhân dân,…

- Đại hội VIII của Đảng nhận định “Sau 10 năm đổi mới, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ,cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH đất nước; phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội đã chỉ ra những nội dung cơ bản của CNHHĐH trong những năm còn lại của thập kỷ 90 của thế kỷ XX.”

- Đại hội IX của Đảng, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.

- Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có tám đặc trưng:

Một là, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh''.

Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh''. Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ ''dân chủ'', thành ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Đại hội X đã xác định đó là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Hai là, ''do nhân dân làm chủ''.

Cương lĩnh 1991 viết: ''do nhân dân lao động làm chủ''. Đại hội X đã điều chỉnh là ''do nhân dân làm chủ''. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, ''có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất''.

Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã hội có sự đan xen phức tạp và đang phát triển. Vì vậy, nói về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh, bỏ đoạn nói về ''chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu''.

Bốn là, ''có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc''.

Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.

Năm là, ''con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”.

So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ ''bóc lột''.

Xét về bản chất và mục tiêu lâu dài trong xã hội ta không còn bóc lột. Nhưng trong quá trình phát triển, hiện tượng bóc lột còn tồn tại do trình độ sản xuất quy định và trong thời kỳ quá độ, nó còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển.

Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chữa cụm từ ''có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'' thành ''phát triển toàn diện''.

Sáu là, “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ''.

Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ ''tương trợ'' để phù hợp hơn với thực tế, phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, miền, từng dân tộc.

Bảy là, ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản''.

Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng l-1994), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm ''xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa''. Các Đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này.

Tám là, ''có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới''.

Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.

- Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011 đã tổng kết 20 năm đổi mới và chỉ ra rõ những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đặc trưng hoàn toàn mới so với Đại hội VII, kế thừa tinh thần của Đại hội X.

2. Do nhân dân làm chủ. Đây là đặc trưng có sự kế thừa, chọn lọc, điều chỉnh từ Đại hội VII và Đại hội X, thể hiện sự mở rộng dân chủ xã hội qua việc bỏ cụm từ “lao động” sau cụm từ “nhân dân”.

3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. So với cương lĩnh năm 1991, đặc trưng này có sự điều chỉnh diễn đạt về quan hệ sản xuất: chuyển từ “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” thành “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Đây là cách nhìn nhận mới về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là đặc trưng kế thừa đầy đủ từ đặc trưng trong Đại hội VII.

5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Đặc trưng này kế thừa, điều chỉnh và lược bỏ một số cụm từ của Cương lĩnh 1991.

6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Điểm mới của đặc trưng này so với cương lĩnh 1991 là cụm từ “các dân tộc trong nước” thay bằng “các dân tộc trong cộng đồng Việ Nam”, bổ sung thêm cụm từ “tôn trọng” sau cụm từ “đoàn kết” để xác định phong phú hơn nội dung bao trùm của chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ tộc người trong quốc gia đa tộc Việt Nam.

7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với cương lĩnh năm 1991 để làm rõ bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam, mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, giữa Đảng cộng sản với Nhà nước.

8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đặc trưng này kế thừa và điều chỉnh diễn đạt từ đặc trưng của Đại hội VII, từ “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” thành “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Tám đặc trưng của mô hình trên đây vừa là mục tiêu, vừa thể hiện bản chất của chế độ XHCN được nêu rõ trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

<<<<<<      >>>>>>

TÀI LIỆU HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH P1-B5

Bài 5. SỨ MỆNH LỊCH SỬ TOÀN THẾ GIỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

Anh chị hãy phân tích điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Liên hệ thực tế.

1. Đặt vấn đề


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất, xuất sắc nhất của CNXH khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác. Vì vậy, vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối cảnh lịch sử hiện nay đang đặt ra một cách bức thiết trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Hiểu được điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa rất lớn trong việc hiểu rõ ý nghĩa và nội dung căn bản cụ thể của giai cấp công nhân nói chung và của Việt Nam nói riêng.

2. Nội dung

2.1. Khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

- Giai cấp CN là gc của những người lđ được hình thành và phát triển cùng với nền sxcn ngày càng hiện đại và xh hoá cao; là gc đại diện của llsx và ptsx tiên tiến trong thời đại hiện nay, có sứ mệnh lsử lđạo và tổ chức ndlđ các nước tiến hành cm xhcn, xd chế độ xhcn, cscn.

- Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là sự nghiệp xác lập một hình thái kinh tế xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nội dung của sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là:

+ Về kinh tế: Trực tiếp sx ra những sp cnghiệp ngày càng hiện đại- cơ sở vchất kỹ thuật, cơ sở ktế cho tất cả các nước theo xu hướng cnh, hđh và phát triển ngày càng cao. Không có gccn lớn mạnh, không một qgia nào ( kể cả các qgia phát triển nhất hiện nay) có thể tồn tại và ptriển được.

+ Về chính trị - xã hội: Thông qua đảng tiên phong của mình, gccn lđạo và tổ chức để ndlđ giành cq, xoá bỏ cq của chế độ tư hữu, áp bức, blột; xd cq của gccn và ndlđ.

+ Về văn hóa, tư tưởng: Thông qua đảng tiên phong của mình lđạo, tổ chức ndlđ xd và bảo vệ xh, tiến dần lên cncs ở mỗi nước và trên toàn tgiới.Vậy những điều kiện khách quan nào quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân?

2.2. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

2.2.1. Do sự quy định của địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân

Giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới thời tư bản chủ nghĩa, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân – đại biểu cho sự tiến bộ của loài người – là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

2.2.2. Những tiền đề vật chất của chủ nghĩa tư bản và sự vận động của mâu thuẫn cơ bản phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Qua sự phát triển sxcn, gccn được trang bị nhiều kthức mới về vh cơ bản, khcn, tay nghề, nhận thức chính trị … và đó cũng là yêu cầu kquan ngày càng cao của sự ptriển công nghiệp ngày càng hiện đại đối với gccn.

2.2.3. Mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

mâu thuẩn cơ bản này kg thể gquyết triệt để trong khuôn khổ cntb, tất yếu dẫn đến cm xhcn do gccn lđạo và tổ chứ. Đó là quy định kquan cho smls của gccn. Trí thức, nd … sẽ là lực lượng tham gia vào cuộc cm xhcn chức kg thể là lực lượng lđạo và tổ chức cuộc cm xhcn. Bời vì, trí tứhc và nd không đại biểu cho một ptsx riêng trong lsử; không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong cntb, mâu thuẩn cơ bản là mâu thuẩn trực tiếp giữa gccn và gcts, do đó cm xhcn phải là của gccn lđạo tiến hành lật đổ gcts để giải phóng gccn, đồng thời giải phóng cho cả nd, trí thức và nd bị áp bức, bóc lột.

3. Kết luận

4. Liên hệ thực tế




TÀI LIỆU HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH P1-B4

Câu 9. Đồng chí hãy phân tích quan điểm của Mac – Anghen, Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng của Đảng ta? Những nhiệm vụ kinh tế chính trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam? Liên hệ thực tế.

Trả lời


1. Đặt vấn đề: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam là con đường khả thi, Đảng ta sớm khẳng định đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là tất yếu khách quan của Việt Nam, vừa phù hợp với lịch sử phát triển của nhân loại, vừa phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với điều kiện của đất nước và nguyện vọng của nhân dân.

2. Nội dung cần làm rõ:

2.1. Khái niệm: Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của TKQĐLCNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

2.2. Quan điểm của Mac – Anghen, Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng của Đảng ta?

- Khi nghiên cứu về CNCS với tư cách là hình thái KT-XH cao hơn CNTB, Mác và Ăngghen nhận thấy rằng cách mạng XHCN chí ít ban đầu phải thắng lợi tại các nước tiên tiến. Khi nghiên cứu về tình hình nước Nga, Mác và Ăng ghen đưa ra luận điểm đối với các nước chậm phát triển (hay còn gọi là giai đoạn tiền TBCN) nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng quá độ lên CNXH mà không cần phải trải qua chế độ TBCN. Tuy nhiên đối với những nước này thời kỳ quá độ có thể kéo dài khó khăn, phức tạp hơn.

- Kế thừa quan điểm của Mác- Anghen và trên cơ sở kết quả nghiên cứu về CNTB giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lê nin đã phát hiện ra và luận giải rõ ràng hơn về quy luật phát triển không đều của CNTB trong thời kỳ thống trị của TB tài chính. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái KT – XH CSCN mà giai đoạn đầu là giai đoạn XHCN. Cho dù CNTB với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới và tạo ra những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, làm cho những mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai của loài người.Từ đó Lênin đã phát triển sáng tạo lý luận CM XHCN của CN Mác và khẳng định rằng CMVS có thể thắng lợi đầu tiên ở một nước, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ đó Lê nin khẳng định, các dân tộc lạc hậu có thể đi lên CNXH mà không phải chờ khi CNTB phát triển, các nước đó có thể đi lên CNXH khi có những điều kiện sau:

+ Phải thiết lập được Nhà nước liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng dự trên nền tảng tư tưởng CN Mác – Lenin.

+ Sự ủng hộ kịp thời của CM XHCN ở một nước hay một số nước tiên tiến.

+ Sự liên minh giũa GC vô sản đang nắm chính quyền với đại đa số nông dân.

- Vận dụng sáng tạo quan điểm của CN Mác- Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của VN, Chủ tịch HCM khẳng định cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, vì “Xd CNXH trong hoàn cảnh một nước vốn là thuộc địa, một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh xâm lược tàn phá. Hoàn cảnh ấy, cố nhiên gây cho chúng tôi rất nhiều khó khăn”. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra “đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển CNTB”. Đây chính là con đường phát triển rút ngắn lên CNXH ở nước ta.

+ Về chính trị: chúng ta bỏ qua chế độ tư bản, bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng TBCN. Nghĩa là toàn bộ hệ thống chính trị phải phục vụ lợi ích của nhân nhân, trong đó chủ yếu là các tầng lớp nhân dân lao động, chứ không phải định hướng ưu tiên cho thiểu số những người giàu có trong xã hội như ở các nước TBCN. Quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân và hệ thống pháp luật cũng phải vì lợi ích của nhân dân.

+ Về kinh tế: chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về KH – CN, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

- Kế thừa quan điểm của CN Mác- Lênin, tư tưởng HCM, Đảng ta trong suốt quá trình CM, VN luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là quá độ lên CNXH, bỏ qua chế dộ TBCN. Đây là sự lựa chọn của Đảng và nhân dân ta từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đó là con đường tất yếu khách quan ở nước ta hiện nay.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta khẳng định: Ngày nay đã có những đk để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở nước ta. Từ CNTB lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào Đk chính trị, KT, XH của mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền SX nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta tiếp tục khẳng định: Đi lên CNXH là con đường tất yếu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình XD CNXH, nhưng ko quan niệm những lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và cô đường đi lên CNXH. Đổi mới ko phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy đc thực hiện có kq bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu rõ: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đc dưới chế dộ TBCN, đặc biệt về KH và CN, để phát triển nhanh LLSX, xd nền Kt hiện đại.

Thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nói chung và ở Việt Nam nói riêng là thời kỳ bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN, xây dựng Nhà nước liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng dự trên nền tảng tư tưởng CN Mác – Lenin. Nó còn là thời kỳ của cuộc đấu tranh chống các nguy cơ “chệch hướng XHCN”. Cho nên hiểu cho đúng thực chất của quá trình này là cần thiết nhưng cũng phải liên tục tổng kết thực tiễn để đổi mới và sáng tạo cho phù hợp với tình hình thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể.

2.3. Những nhiệm vụ kinh tế chính trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam

Để xây dựng thành công CNXH, trong thời kỳ quá độ cần phải tạo nên những bước phát triển vượt bậc về LLSX đồng thời từng bước xây dựng những QHSX phù hợp với LLSX đó. Do vậy thời kỳ quá độ phải thực hiện những nhiệm vụ sau:

- Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội:

CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Do bỏ qua CNTB cho nên CNH, HĐH của VN vừa có thuận lợi, song cũng vừa có những khó khăn. Thuận lợi là có thể tiến hành CNH “rút ngắn” nhằm “đi tắt, đón đầu” về công nghệ trong một số ngành, một số lĩnh vực trên cơ sở đó tiết kiệm được thời gian và các nguồn lực. Tuy nhiên, những khó khan cũng rất lớn. Đó là những bất cập về vốn, nguồn nhân lực trình độ cao, cơ sở hạ tầng yếu kém, tập quán sản xuất nhỏ của người lao động còn phổ biến…

Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lý có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là "quốc sách hàng đầu" trong chiến lược phát triển đất nước.

Khi và chỉ khi hoàn thành nhiệm vụ CNH, HĐH mới có thể nâng cao năng sức lao động đến mức chưa từng có trong lịch sử và trong quan hệ so sánh với các nước tư bản phát triển, mới có thể khẳng định được sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH.

Liên hệ:

- Xây dựng QHSX mới thông qua phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; nó là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.

Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lý cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

Liên hệ:

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.

Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nuớc ta những cơ hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường "rút ngắn". Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, v.v..

Liên hệ:

Câu 10. Hãy phân tích tính tất yếu khách quan, bản chất các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Liên hệ thực tế địa phương, cơ sở.

Trả lời


1. Đặt vấn đề

- Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất địnhvề tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị để xác định từng thành phần kinh tế.

- Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.

- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ cấu kinh tế trong đó các thành thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển như một tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau.

2. Nội dung

2.1. Phân tích tính khách quan trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế

Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là tất yếu khách quan:

- Một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ (như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân...) để lại, chúng đang có tác dụng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất; một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới (như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước). Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, suy đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do trình độ lực lượng sản xuất còn rất thấp, tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, lại phân bố không đều giữa các ngành, vùng... nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.

Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan, mà còn có vai trò to lớn vì:

Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Chính sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền. Điều đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế xã hội.

Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những "cầu nối", trạm "trung gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Bốn là, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và cùng với nó là các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Năm là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước, như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đồng thời cho phép khai thác kinh nghiệm tổ chức quản lý và khoa học, công nghệ mới trên thế giới.

2.2. Bản chất các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trên cơ sở nguyên lý ba thành phần kinh tế chủ yếu mà V.I.Lênin đã chỉ ra trong thời kỳ quá độ (kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế của những người sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân), tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà xác định cơ cấu thành phần của từng giai đoạn cho phù hợp.

Qua thực tiễn của 25 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có 4 thành phần cơ bản. Đó là:

- Thành phần Kinh tế nhà nước

- Thành phần Kinh tế tập thể

- Thành phần Kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân

- Thành phần Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

* Kinh tế nhà nước:

- Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó được thể hiện:

Một là, doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Nó là đòn bẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và giải quyết các vấn đề xã hội.

Hai là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó mở đường, hướng dẫn hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

* Kinh tế tập thể:

Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.

Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo; tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.

Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất.

Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng quỹ hỗ trợ hợp tác xã.

* Kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân:


Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. "Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế"

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân; khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.

- Kinh tế cá thể, tiểu chủ:

Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: trong kinh tế cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn trong kinh tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, nhưng có thuê lao động.

Ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước. Nó có khả năng sử dụng và phát huy có hiệu quả các tiềm năng về vốn, sức lao động, các kinh nghiệm sản xuất, ngành nghề truyền thống. Hạn chế của thành phần này là ở tính tự phát, manh mún và chậm ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ. Vì vậy, một mặt, cần tạo điều kiện để kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển; mặt khác, cần hướng dẫn nó dần dần vào kinh tế tập thể một cách tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.

- Kinh tế tư bản tư nhân:

Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, thành phần này còn có vai trò đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao. Vì vậy, một mặt, nhà nước tạo tâm lý xã hội và môi trường trong kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân (trong đó có các doanh nghiệp tư bản tư nhân) phát triển không hạn chế trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. Mặt khác, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân, trong đó có kinh tế tư nhân tư bản tư nhân. Xét về lâu dài có thể hướng kinh tế tư bản tư nhân đi vào kinh tế tư bản nhà nước dưới những hình thức khác nhau.

* Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thông qua bổ sung nguồn vốn đầu tư, chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tạo việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu tính cả dầu khí), đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước (tính cả dầu khí thì trên 36%), tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.

Đảng và Nhà nước ta khẳng định: "Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng"

Kết luận

Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.



<<<<<<       >>>>>>

TÀI LIỆU HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH P1-B3

Câu 1. Tại sao nói quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa? Trình bày nội dung, cơ chế tác động và chức năng của quy luật giá trị? Ý nghĩa của viêc nghiên cứu.

1. Đặt vấn đề

2. Nội dung

2.1. Tại sao nói quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa vì ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Quy luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kỳ, phân hóa giàu nghèo, những cuộc cạnh tranh không lành mạnh… theo yêu cầu của quy luật những người SX và trao đổi hàng hoá phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường chính là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị. Giá cả lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá là cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung-cầu, sức mua của đồng tiền.

2.2. Nội dung, cơ chế tác động và chức năng của quy luật giá trị.

2.2.1. Nội dung của quy luật giá trị

Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.

- Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được.

- Trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.

2.2.2. Cơ chế tác động của quy luật giá trị

- Biểu hiện của quy luật giá trị: Quy luật giá trị buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa tuân theo mênh lệnh giá cả thị trường; sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động lên xuống của giá cả thị trường. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị, lấy giá trị làm cơ sở, đó chính là tác động của quy luật giá trị.

- Cơ chế vận hành của quy luật giá trị: trong cơ chế thị trường tự do với điều kiện sức mua của đồng tiền k thay đổi, khi cung bằng cầu, giá cả thị trường sẽ tương đồng với giá trị; khi cung lớn hơn cầu giá cả sẽ nhỏ hơn giá trị; ngược lại khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả sẽ lớn hơn giá trị.

2.2.3. Chức năng của quy luật giá trị

- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá:

Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:

+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.

+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.

Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.

Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

- Kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động:

Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy người sản xuất hàng hoá nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí SX.

- Phân hoá những người sản xuất hàng hoá nhỏ thành người giàu, người nghèo:

Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào đó có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi thậm chí có thể phá sản, trở thành người phải bán sức lao động làm thuê. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị

- Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.

Câu 2. Tại sao nói quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa? Phân tích nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.

Trả lời

1. Đặt vấn đề

2. Tại sao nói quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

- Giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

- Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.

- Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

2.3. Phân tích nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư

- Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố sản xuất chủ yếu, sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng. Ví dụ như: Phát minh khoa học, cãi tiến kỷ thuật hay lao động sản xuất ra của cải vật chất, ... khi sức lao động trở thành hàng hoá giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao dộng tạo ra hàng hoá. Trong quá trình ấy, chính lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động , tức là tạo ra giá trị thặng dư.

- Giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra, dôi ra ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của người lao động. Do đó, nếu quá trình lao động dừng lại ở điểm mà giá trị sức lao động thì chỉ có sản xuất giá trị giãn đơn, khi quá trình lao động vượt quá điẻm đó mới có sản xuất giá trị thặng dư.

- Vậy nhân tố quyết định việc sản xuất giá trị thặng dư theo quan điểm chủ nghĩa Mac là nhân tố sức lao động của người công nhân (Chủ yếu là giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động).

- Muốn sản xuất ra giá trị thặng dư (m), trước hết nhà tư bản ra thị trường những thứ cần thiết như: Tư liệu sản xuất, sức lao động của người công nhân, ... Sau khi có được hai loại hàng hoá đó, nhà tư bản kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu mà nhà tư bản bỏ ra, phàn lớn hơn đó gọi là giá trị thặng dư (m).

2.4. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.

Câu 3. Trình bày vai trò của tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản? Làm rõ nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp? Ý nghĩa của việc phát triển tư bản thương nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trả lời

1. Đặt vấn đề

2. Vai trò của tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản

2.1. Sự ra đời của tư bản thương nghiệp

- Xét về mặt lịch sử thì tư bản thương nghiệp xuất hiện trước tư bản công nghiệp, đó là thương nghiệp cổ xưa. Điều kiện xuất hiện và tồn tại của tư bản thương nghiệp cổ xưa là lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ. Đặc điểm hoạt động của thương nghiệp cổ xưa là "mua rẻ bán đắt", là "kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo".

- Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa.

2.2. Vai trò của tư bản thương nghiệp

- Tiết kiệm chi phí lưu thông: Nhờ có TBTN chuyên trách việc mua – bán hàng hóa mà lượng TB ứng vào lưu thông và CP lưu thông nhỏ hơn khi những người SX trực tiếp đảm nhận chức năng này.

- Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản: Nhờ có TBTN chuyên trách việc mua – bán hàng hóa, sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu chuyển TB, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm.

- Thúc đẩy giao lưu kinh tế, toàn cầu hóa Nhờ có TBTN chuyên trách việc mua – bán hàng hóa, Người SX có thể tập trung chăm lo việc SX, giảm dự trữ SX, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.

3. Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp

- Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho mình. Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư.

- Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân. Tư bản công nghiệp "nhường" một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận thương nghiệp.

4. Ý nghĩa của việc phát triển tư bản thương nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

- Tư bản thương nghiệp làm cho lĩnh vực lưu thông hàng hóa có chuyên môn hóa sản xuất đáp ứng thị hiếu thị trường, từ đó giúp cho tư bản chủ nghĩa cải tiến mẫu mã chất lượng hàng hóa, cải thiện dịch vụ, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường do đó kích thích sản xuất.

- Đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của thị trường, nâng cao chất lượng cuộc sống con người không chỉ nội tại quốc gia mà còn thông thương ra quốc tế.

Câu 4. Trình bày 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? Nêu điểm khác nhau giữa hai phương pháp? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với nước ta hiện nay.

1. Đặt vấn đề

2. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư


- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là giá trị thặng dư thu hút được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng sức lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của CNTB khi công cụ lao động thủ công thống trị, năng suất lao động còn thấp.

Với lòng tham vô hạn, các nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày lao động, nâng cao trình độ bóc lột sức lao động làm thuê. Nhưng một mặt, do giới hạn tự nhiên về sức lực con người, về sức lực tinh thần, mặt khác do đấu tranh của công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên, ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động, làm việc ngoài giờ trả công thấp hơn giá trị sức lao động.

- PP sản xuất giá trị thặng dư tương đối: là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở hạ thấp giá trị hàng hóa sức lao động nhờ giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi.

Đề giành ưu thế cạnh tranh, để thu hút được nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản đã áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế nâng cao năng sức lao động.

Kết quả là giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào thực hiện được điều đó thì khi bán hàng của mình sẽ thu được một giá trị thặng dư trội hơn so với các nhà tư bản khác. Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của xã hội được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.

3. Điểm khác nhau giữa hai phương pháp


Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Sản xuất giá trị thặng dư tương đối


- Kéo dài ngày lao động hay tăng cường độ lao động khi NSLĐ, giá trị SLĐ và thời gian lao động tất yếu không đổi

- Rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở hạ thấp hàng hóa sức lao động nhờ giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết, do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư khi độ dài ngày lao động không đổi


- Dễ gặp sự phản kháng của GCCN do tăng cường độ lao động

- Ít gặp sự phản kháng của GCCN


- Áp dụng máy móc, thiết bị hiện đại để rút ngắn thời gian lao động tất yếu nên thúc đẩy LLSX xã hội phát triển

- Không có áp dụng máy móc, thiết bị hiện đại


- Trong thời kỳ đầu của CNTB, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế

- Trong giai đoạn cao của TBCN thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế

4. Ý nghĩa

3- Ý nghĩa việc phát triển TBTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:

TBTN làm việc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa có chuyên môn hóa sản xuất đáp ứng thị hiếu thị trường từ đó giúp cho TBCN cải tiến mẫu mã chất lượng HH, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thị trường do đó kích thích SX

Đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của thị trường, nâng cao chất lượng cuộc sống con người ở hiện đại từ đó thông thương ra quốc tế.



<<<<<<       >>>>>>

1
1
2
2
3
3
4
4
5
5
6
6
7
7
8
8
9
9
10
10
11
11
12
12

Featured Posts

LEDUAN11 | 2024 | Khai giảng Lớp Trung cấp Lý luận chính trị, Khóa 13 cho cán bộ 2 tỉnh Salavan và Savannakhet nước CHDCND Lào

 

School Legislation

Show all posts

Class Schedule

Show all posts

News

Show all posts

Lesson

Show all posts

Visit

Show all posts

Various Techniques

Show all posts

Happy birthday

Show all posts

Student Information

Show all posts

Other

Show all posts

Maps

Facebook

Exchange Rate

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
12

Followers

Views

Qr Bank & Logo

QR BANK
Qr Bank

LOGO
Logo

© Copyright LEDUAN131474 ,Generation 11